Cải cách là phương thức Do Thái giáo hiển nhiên thu hút được những
doanh nhân rất thành đạt, hiện đang xuất hiện như các nhân vật chính trên
sân khấu Mỹ. Đó là chủ ngân hàng Joseph Seligman (1820-1880), từng
được Tổng thống Grant mời làm Bộ trưởng Tài chính, và Jacob Henry
Schiff (1847-1920), trở thành người đứng đầu Kuhn, Loeb & Co. năm
1885. Như với Chiến tranh Ba mươi năm và các cuộc chiến Napoleon, Nội
chiến đã phát huy kỹ năng tổ chức và kỹ năng tài chính của nhiều chủ ngân
hàng, nhà thầu, nhà cung cấp quần áo Do Thái, và từ những năm 1860 trở
đi người Do Thái là một thế lực trong ngành kinh doanh Mỹ, nhất là ở New
York. Hoạt động từ thiện quy mô lớn của họ mang lại cho Do Thái giáo
một cái khung thiết chế khá tốt về cấp vốn, và việc này tất yếu có một định
hướng tự do mạnh mẽ. Liên minh Giáo đoàn Hebrew Mỹ được thành lập
năm 1873, Đại học Liên minh Hebrew hai năm sau đó, Hội nghị Trung
ương Giáo sĩ Mỹ năm 1889. Tuyên ngôn Pittsburg (1885), do Giáo sĩ
Kaufmann Kohler soạn, phản đối mọi giáo luật Torah “vì chúng không
được điều chỉnh để phù hợp với quan điểm và thói quen của nền văn minh
hiện đại,” đã trở thành tín điều tiêu chuẩn của Do Thái giáo cải cách cho tới
năm 1937. Nó phản đối các quy định lâu đời về ăn kiêng, về sự thanh khiết
và trang phục, nó khẳng định rằng người Do Thái “không còn là một dân
tộc nữa mà là một cộng đồng tôn giáo,” phủ nhận phục sinh, thiên đường
và địa ngục, bác bỏ việc quay lại Zion, mô tả thuyết cứu thế như là cuộc
đấu tranh vì sự thật, công lý và công bằng trong xã hội hiện đại - trong đó
nó sẽ tham gia bên cạnh các tôn giáo và dân tộc khác có thiện chí nói
chung.
Do đó, khi cuộc đại di cư diễn ra, dường như cộng đồng Do Thái Mỹ, do số
mệnh phải là một dải sợi khác lạ trong tấm vải quý của tôn giáo Tân Thế
giới, nên khi mặc đã phai màu và không thể thấy được trong tổng thể. Sự
hoảng loạn do thảm hoạ năm 1881 gây ra đã thay đổi viễn cảnh đó mãi mãi.
Trong thập niên 1881-1892, người Do Thái đến Mỹ với tốc độ 19.000
người một năm; trong thập niên 1892-1903, con số trung bình nhảy vọt lên
37.000 người một năm; và trong 12 năm 1903-1914 con số trung bình là