LỊCH SỬ DO THÁI - Trang 549

“nước ngoài” được cho là “đang đầu độc văn hóa Volk.

*170

Tư tưởng này, vốn dần trở nên phổ biến ở

Đức và Áo vào thế kỷ 19, có một sự phân biệt tối quan trọng giữa “văn hóa” (hiền lành, hữu cơ, tự nhiên) với “văn minh” (mục nát, nhân tạo, cằn cỗi). Mỗi nền văn hóa có một tâm

hồn, tâm hồn đó được cảnh quan tại chỗ định đoạt. Thế thì văn hóa Đức mãi thù địch với văn minh, vốn mang tính quốc tế và xa lạ. Ai đại diện cho nguyên tắc văn minh? Tại sao lại

có một chủng tộc duy nhất không có đất nước, cảnh quan, văn hóa của riêng mình: người Do Thái! Lập luận này điển hình cho những gì nhằm bắt lỗi người Do Thái, dù họ có làm gì

đi nữa. Nếu họ bấu víu vào Do Thái giáo ghetto thì họ sẽ trở nên xa lạ vì lý do đó; nếu họ thế tục hóa và “khai sáng” bản thân thì họ sẽ trở thành một phần của văn minh xa lạ. Sự

phản đối völkisch này đối với người Do Thái diễn ra dưới nhiều hình thức. Nó tạo ra một Phong trào Thanh niên, với những người lang thang qua cảnh quan Đức, gảy đàn ghi-ta, hát

bên đống lửa trại, và phản đối người Do Thái, mà lẽ ra phải lập nên một phong trào thanh niên của riêng mình. Nó kiểm soát tầng lớp sinh viên, một lực lượng ngày càng quan trọng

trong xã hội Đức; họ tống người Do Thái ra khỏi các câu lạc bộ của mình - Herzl bị “đuổi” khỏi câu lạc bộ của ông trước khi ông có thể từ chức - và thậm chí từ chối đấu súng cùng

họ, với lý do người Do Thái không có “danh dự” để mà mất. Nó lập ra một phong trào bảo vệ môi trường, tổ tiên của Đảng Xanh, một đảng phản đối công nghiệp và đại tài phiệt

(nhà Rothschild) và nhất là các thành phố lớn ngày càng mở rộng thành môi trường sinh sôi của người Do Thái quốc tế: Berlin và Vienna bị người Volk ghét cay ghét đắng, bị coi là

“các thành phố Do Thái.” Kinh Thánh của họ là Land und Leute (Đất và Người) của Wilhelm Heinrich Riehl, một giáo sư đại học và nhà quản lý bảo tàng ở Munich, người muốn

khôi phục thị trấn nhỏ kiểu trung cổ và đuổi cổ tầng lớp vô sản “không có gốc rễ” (cụm từ chửi bới yêu thích của ông này) khỏi đây, nhất là những công nhân di cư, và trên hết là

người Do Thái đã tạo ra các thành phố lớn, “nấm mồ của sự sùng bái Đức.”

Chủ nghĩa bài Do Thái kiểu Volk có nhiều mặt, mâu thuẫn, không thống
nhất, nhan nhản khắp nơi. Nó gồm nhiều cuốn tiểu thuyết nói về đời sống
nông dân, chẳng hạn như Der Büttnerbauer (1895) của Wilhelm von
Polenz và Der Werwolf (1910) (Người sói) của Hermann Lons, trong đó
người Do Thái được mô tả là những kẻ thuộc tầng lớp trung gian và lái
buôn vô liêm sỉ, lừa bịp nông dân và cướp đất của họ; Liên minh Nông dân
Đức có thái độ bài Do Thái mạnh mẽ. Nó bao gồm một trường phái các sử
gia, dẫn đầu là Heinrich von Treitschke, kết tội người Do Thái đã xâm
phạm sự phát triển lịch sử “tự nhiên” của Đức từ bên ngoài và mang tính
hủy diệt, và lần đầu tiên khiến chủ nghĩa bài Do Thái trở thành chuyện
đáng quan tâm trong giới học thuật. Nó bao gồm các nhà khoa học và giả
khoa học, những người ứng dụng sai công trình của Charles Darwin và tạo
ra “chủ nghĩa Darwin xã hội,” trong đó các chủng tộc tranh đấu với nhau để
định đoạt “sự sinh tồn của chủng tộc khỏe mạnh nhất”; Alfred Krupp tài trợ
cho một cuộc thi luận về việc ứng dụng chủ nghĩa Darwin xã hội vào chính
sách nhà nước, thu hút nhiều bài gửi đến ủng hộ chính sách hà khắc nhằm
bảo vệ Volk, chẳng hạn như đưa người Do Thái và các loại người “thoái

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.