1971 có bốn người và năm 1976 có năm người; việc một người Do Thái
vào được ủy ban Trung ương không phải là không xảy ra. Nhưng những
người như vậy phải đánh đổi bằng việc bài Do Thái kịch liệt. Năm 1966,
người Do Thái chiếm 7,8% số giảng Viên đại học, 14,7% số bác sĩ, 8,5% số
nhà văn và nhà báo, 10,4% số thẩm phán và luật sư, 7,7% số diễn viên,
nhạc sĩ và hoạ sĩ. Nhưng trong mọi trường hợp, tỉ lệ phần trăm bị giảm
xuống do hành động của Đảng và của chính quyền. Do đó, vào năm 1947,
người Do Thái cung cấp 18% lực lượng lao động khoa học Xô Viết, nhưng
chỉ còn 7% vào năm 1970. Như dưới thời các Sa hoàng, sự sụt giảm này
đặc biệt diễn ra ở cấp độ đại học. Số sinh viên Do Thái giảm về cả con số
tuyệt đối, từ 111.900 sinh viên năm học 1968-1969 xuống còn 66.900 sinh
viên năm học 1975-1976, lẫn tỉ lệ tương đối mà so với tổng số sinh viên
còn giảm mạnh hơn. Năm học 1977-1978, không một sinh viên Do Thái
nào được nhận vào Đại học Moscow.
Chính sách bài Do Thái thời Xô Viết cho thấy có một số điều khó hiểu và
mâu thuẫn. Có những khao khát xung đột nhau trong việc sử dụng và bóc
lột người Do Thái, bắt họ làm tù nhân, trục xuất họ, điểm chung trong cả
hai trường hợp là muốn hạ nhục. Do đó, năm 1971, Brezhnev quyết định
mở cửa, và trong thập niên sau đó 250.000 người Do Thái được phép chạy
thoát. Nhưng mỗi khi số người di cư tăng cao thì số vụ xét xử người Do
Thái cũng tăng mạnh, và quy trình xin visa xuất cảnh bị làm cho phức tạp,
khó khăn và mệt mỏi nhất như có thể. Người xin visa cần phải xin giấy giới
thiệu tư cách từ nơi làm việc, và việc này thường dẫn tới một kiểu dạng như
đấu tố ở đó, trong đó người Do Thái bị công khai thảo luận, lên án và rồi sa
thải. Thế nên người Do Thái thường mất việc, không một xu dính túi và
chắc chắn bị bỏ tù vì tội “ăn bám” rất lâu trước khi visa được cấp.
Thủ tục xuất cảnh trở nên phiền hà hơn trong những năm 1980, gợi nhớ lại
đống mê cung phức tạp của luật pháp Sa hoàng. Ngày càng có ít visa được
cấp và thường một gia đình phải chờ năm hay thậm chí chục năm mới xin
được giấy phép xuất cảnh. Thủ tục có thể được tóm tắt như sau. Người nộp