dùng cách bí mật ấy để thực hiện âm mưu của chúng.
Những cơ quan điều tra và cơ quan cảnh sát, tuy có tầm vóc kém hơn
S.D và Gestapo, cũng đã biết cách giữ gìn bí mật trong công việc. Các cơ
quan của Hitler giữ bí mật đến mức lố lăng. Nhất là trong những biện pháp
quá đáng thường theo tính cách giữ gìn bí mật tới độ bệnh hoạn của
Heydrich.
Điều này thể hiện trong các vụ ám sát. Đại tá Günther Krappe, sĩ quan
trong Bộ tổng tham mưu của quân đội, hoạt động quân sự ở Budapest, năm
1940 đã báo cho Chính phủ Hung biết sự chuẩn bị tấn công của Liên Xô
cho biết một trong số cộng sự của hắn đã bị Gestapo sát hại để ngăn cản
việc làm lộ bí mật.
Trong văn phòng của Gestapo và S.D có những tấm biển nhỏ ghi hàng
chữ: “ Anh chỉ được biết đến người nào làm việc với anh. Và khi anh đã
biết người đó, hãy giữ bí mật riêng cho mình ”.
Một viên chức của Gestapo đã bị xử bắn chỉ vì tội giao dịch với một
viên chức Gestapo khác, tiết lộ cho người này biết công việc của mình đang
làm.
Các công việc đều phải bí mật; hết sức bí mật; chỉ có người chỉ huy mới
biết những “công việc bí mật” và cuối cùng là “công việc bí mật của Quốc
xã”.
Điểm thứ tư này có liên quan tới các ý kiến. Các mệnh lệnh, các chỉ thị
chỉ được báo cáo lên cấp cao nhất của Reich, hay một nhân vật nào thật đặc
biệt, mà không được tiết lộ cho bất kỳ ai khác.
Trong thời gian chiến tranh, có một quy tắc được ban bố: những người
giữ quyền hạn bí mật của nhà nước “dưới bất cứ lý do nào, có tham dự vào
những hoạt động nghiệp vụ không được để kẻ địch bắt làm tù binh, mà phải
tự xử ngay”. Chính vì thế mà các nhân viên của Gestapo và S.D không bao
giờ phải ra mặt trận.
Các biện pháp sau đây đã được Hitler ký duyệt để chuyển cho những
người có trách nhiệm: “Mệnh lệnh số 1 cho tất cả những người có trách
nhiệm trong quân đội và các cơ quan hành chính” ra ngày 23-5-1939.
Mệnh lệnh ấy có ghi: