1/ Không được biết đến những công việc bí mật không thuộc thẩm
quyền của mình.
2/ Không được tiết lộ công việc hết sức cần thiết của mình cho người
khác biết.
3/ Không được tìm hiểu những lý do buộc anh phải làm phận sự đó.
4/ Không được chuyển sang làm công việc khác, khi được lệnh phải làm
tròn một công việc cần thiết.
Những biện pháp cứng rắn ấy đã như tấm màng phủ lên mọi nỗi lo sợ
của những ai tham dự vào một công việc bí mật của Quốc xã.
Những người có trách nhiệm ở các trại tập trung, nếu phạm vào một điều
bí mật nào, có thể bị tra tấn hết sức đặc biệt để đảm bảo không bị phát hiện
ra sự có mặt của người đó nữa, nghĩa là phải thủ tiêu anh ta đi.
Những tên phụ tá của bọn chỉ huy ở trại tập trung, nếu phát giác ra sự vi
phạm của cấp chỉ huy, cũng sẽ bị trừng phạt để không làm lộ những vấn đề
trong nội bộ của đơn vị.
Đối với dân chúng “bổn phận của lòng yêu nước là phải im lặng”, bằng
cách đó chúng ngăn chặn việc tiết lộ thông tin ra bên ngoài.
Chúng bắt nhân dân Đức phải câm lặng suốt 12 năm, mặc cho lương tâm
của họ đã trỗi dậy trước những hành động tra tấn của Gestapo hay đối mặt
với những cách hành hạ ở các trại tập trung. Chúng sợ những điều tiết lộ
của nhân dân “sẽ giúp cho kẻ địch dựa vào đó để tuyên truyền” chống lại
chúng.
Những bản chỉ thị hướng dẫn có từ năm 1939 cho toàn bộ tổ chức của
cảnh sát, buộc những bộ phận thu thập tin tức tình báo phải tách rời khỏi bộ
phận khai thác tài liệu. Có một quy tắc rất nghiêm khắc cho những người
lên kế hoạch hành động, là họ không bao giờ được biết đến kết quả của
những công việc đã được tiến hành.
Đến hết chiến tranh, luật về những điều bí mật vẫn còn ảnh hưởng rất tai
hại. Nó thể hiện ở các chỉ huy quân đội dù thấy rõ những hoàn cảnh tuyệt
vọng nhưng họ cũng không bao giờ nêu ra. Khi những người chỉ huy nhận
thức rằng chiến tranh đã thất bại và không thể cứu vãn được nữa, Hitler vẫn
cấm họ không được công bố điều đó bằng một mệnh lệnh: “Người nào