chính phủ, những người trốn quân dịch ở Ba Lan hay Nga, những kẻ lang
thang trộm cắp.
“Trong tất cả các trường hợp, theo nguyên tắc, lệnh của tôi phải được thi
hành ngay.”
***
Tháng 7-1942, đã có dấu hiệu về cuộc thương lượng. Cũng trong thời
gian này diễn ra cuộc trao đổi tích cực để đạt được các điều khoản trong
bản thỏa thuận Oberg-Bousquet. Đã có nhiều cuộc đàm phán với Darlan, tư
lệnh trưởng lực lượng bộ binh, hải quân và không quân. Ngày 17-4, tướng
Bridoux, bộ trưởng Bộ chiến tranh đã trao đổi về những biện pháp cho phép
Đức tăng thêm quân số 50 ngàn người cùng những quân dụng cho quân đội
trong hoàn cảnh đình chiến. Trò trẻ con của tướng Bridoux chỉ do động cơ
cá nhân muốn làm tăng thêm uy tín cho mình. Nhưng còn lâu mới làm thỏa
mãn được đòi hỏi của quân đội Đức. Đầu tháng 9, có một cuộc họp ở Paris,
tại khách sạn Lutétia, trụ sở của Bộ quốc phòng, hai sĩ quan Pháp, đại diện
cho tướng Darlan và Bridoux đã chịu trách nhiệm thương lượng với quân
Đức.
Đô đốc hải quân Canaris, cũng có mặt ở Paris. Cố vấn sứ quán Đức là
Rahn, chuyên gia về tình báo đã mời cơm Canaris và hai sĩ quan Pháp. Sau
đó diễn ra hai cuộc họp tiếp ở khách sạn Lutétia. Ở cuộc họp thứ nhất, đại tá
Reile thay mặt cho Canaris, nhưng ngày hôm sau Reile đã coi như người có
quyền “kết luận sự việc.”
Thoạt đầu tiên, những người của Bộ quốc phòng Đức đề nghị sự cộng
tác có hiệu quả giữa các nhân viên điều tra của Đức với Phòng nhì của Pháp
ở Bắc Phi. Họ đã nhanh chóng đi tới sự thỏa thuận và nhân viên điều tra của
Phòng nhì Pháp sẽ chuyển báo cáo cho nhân viên điều tra của đô đốc
Canaris về những hoạt động của các hạm đội qua lại giữa Dakar và hải cảng
Bathurst của Anh. Nhưng Canaris lại có những dự kiến khác. Canaris muốn
chính phủ Vichy cấp cho người Đức giấy tờ giả là người Pháp để làm nhiệm
vụ quan trọng của cảnh sát ở miền Nam, khu vực Đức chưa chiếm đóng.
Bộ Quốc phòng Đức còn được đặt một cơ quan là Cục IIIF chuyên về
radio, phát hiện các đài phát bí mật. Một cơ quan khác là W.N.VF đặt trụ sở