nghiêm, người nào lâm trận mà nhút nhát sẽ bị tội chém, vợ con điền sản sẽ
phải thu làm của quan. Đại quân vào đến Chiêm-thành, vây thành Đồ-bàn
(Bình-định) nhưng vì quân đi đã chín tháng giời, lương hết lại phải kéo về.
Không được bao lâu thì nhà Hồ bại ; quân Minh vào chiếm nước ta, ta
còn lo chống chọi với giặc Minh chưa xong, vua Chiêm-thành là Ba-Đích-
lại nhân dịp đó chiếm lấy 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa mà lại hay vào biên
cương cướp phá. Sau khi nhà Lê phục quốc, niên hiệu Thái-hoá thứ 2
(1444), vua Chiêm là Bí-Cai lại vào cướp phá đất Hoá-châu ; vua Nhân-tôn
mới sai ông Lê-Phụ, ông Lê-Khả vào đánh thành Đồ-Bàn, bắt Bí-Cai đem
về. Người trong nước mới lập người cháu vua cũ Bố-Đề là Ma-a-quy-lai lên
làm vua. Em Quy-lai là Quy-Do lại giam anh mà tự lập. Sau Bàn-la-trà-
duyệt giết Quy-Do mà cướp lấy rồi truyền ngôi cho con là Bàn-la-trà-toàn.
Năm Hồng-Đức thứ 1 (1470) mùa thu tháng 8 vua Chiêm là Bàn-la-trà-toàn
thân xuất thuỷ bộ tượng mã vào cướp Hoá-châu. Trấn tướng Hoá-châu là
Phạm-văn-Hiển thế không địch nổi mới dồn dân vào cả trong thành rồi đưa
thư cáo cấp về triều. Vua Thánh-Tôn liền xuống dụ trưng binh mộ tướng.
Tháng 11, định ra 52 điều quân luật. Ngày mồng 6, vua xuống một tờ chiếu
nói việc thân chinh Chiêm-thành, sai thái-sư Lân-quận-công Đinh-Liệt,
Thái-bảo Kỳ-quận-công Lê-Kiện lĩnh quân ba phủ đông nam bắc đi trước,
ban bố 24 điều về việc đi đánh Chiêm-thành ra các dinh và các vệ Cẩm-y,
Kim-ngô, Thân-vũ Điện-tiền. Ngày mồng 7, vua vào làm lễ cáo ở nhà Thái-
miếu. Ngày 16, vua thân xuất đại quân tiến đi, sai bọn tả đô đốc Lê-hy-Cát,
Hữu đô-đốc Lê-cảnh-Huy ở lại kinh thành lưu thủ. Ngày hôm ấy ngự giá
khởi hành, có mưa phùn và có gió bắc, vua có làm mấy câu thơ rằng :
« Trăm muôn tướng sĩ ruổi lên đường, lấm tấm mưa nhuần, gió bắc
phương », tức là bài thơ kỷ thực đó. Sai Nguyễn-như-Đổ đến tế ở miếu vua
Đinh-Tiên-Hoàng, để cầu quân đi được thắng trận. Vua lấy bức địa đồ
Chiêm-thành, đổi đặt lại những tên sông núi. Ngày mồng 3 tháng 12, đại giá
đến Thiết-sơn. Ngày 18, thủy quân vào đến Chiêm-thành.Năm Hồng-Đức
thứ 2 (1471), ngày mồng 2 tháng Giêng, vua nghĩ rằng đại tướng quân đem
quân bước vào cõi giặc thì cần phải có quân sĩ tinh luyện, bèn truyền cho
quân Thuận-hoá đều phải ra bể để thao diễn về đường thuỷ chiến. Vua lại lo