thẳng vấn đề “hợp tác sản xuất” giữa tù nhân và nhà tù, nêu khẩu hiệu “tự
túc tự cấp - có làm, có hưởng”. Cao Minh Tiếp trả lại sinh hoạt bình thường
cho các trại cấm cố, cấp hột vịt, coi như phần ăn phụ trội, mở hội nghị đại
diện tù nhân các trại đế thăm dò nguyện vọng mà thực chất là ráo riết chuẩn
bị cho âm mưu:
– Lừa mị để chiêu hồi sản xuất
– Đàn áp để đánh rã số chống chào cờ ngoan cố
– Thanh lọc tù nhân, phẩn vùng giam giữ.
Tuy nhiều thủ đoạn, Cao Minh Tiếp vẫn bất lực. Tù chính trị tẩy chay
khẩu hiệu “tự túc, tự cấp - có làm, có hưởng”, mặc dù hắn đã tăng mức
hưởng lợi từ 25% lên 40%, 60%, 80% rồi 100%.
Bất chấp sự đàn áp, khủng bố, số tù chính trị chống chào cờ vẫn tăng lên
đến hơn 3.000 vào tháng 7- 1971. Cao Minh Tiếp ráo riết thúc đẩy việc xây
dựng khu biệt lập Trại VII (chuồng cọp Mỹ), và thanh lọc tù nhân, thực
hiện chiến lược phân vùng giam giữ. Trong tháng 11 và tháng 12-1971,
Tiếp chỉ huy nhiều trận đàn áp, xé phòng dồn trại, đưa trên 1.000 tù án
chính trị mà chúng xem là cốt cán, biệt giam về Trại VII đưa hơn tám trăm
tù chính trị câu lưu từ Trại I về Trại VI khu B. Chiến lược phân vùng giam
giữ của Cao Minh Tiếp chia Côn Đảo thành 3 khu vực:
– Khu vực I gồm Trại II, Trại III và các Sở tù khổ sai là nơi giam giữ số
tù nhân chấp hành nội quy, chịu làm khổ sai,
– Khu vực III gồm Trại VI, Trại VII, và Trại VIII là nơi cấm cố các phần
tử cốt cán, cầm đầu, khó cải tạo.
– Khu vực II gồm Trại I, Trại IV và Trại V là khu đệm,vừa có cấm cố,
vừa khổ sai, chờ thanh lọc, phân loại.
Tháng 5-1972, thực hiện xong chiến lược phân vùng giam giữ, ngăn
chặn đấu tranh, Cao Minh Tiếp được thăng chức đại tá, làm Giám đốc Nha
cải huấn, trung tá hải quân Đào Văn Phô ra Côn Đảo kế vị.
Nhằm đối phó với cuộc tiến công mùa hè 1972 của quân và dân ta, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu ra Sắc lệnh 271-TT/SL ngày 10-5-1972 ban bố