Đảo, họ vẫn tiếp tục đấu tranh, với tinh thần cương quyết dùng bạo lực
chống lại kẻ thù có bạo lực Với truyền thống thà chết quyết không chịu làm
nô lệ, lớp tù nhân đầu tiên này mang lại cho cuộc đấu tranh ở Côn Đảo hình
thức chủ yếu là đấu tranh vũ trang thuần tuý, với những ưu điểm và những
hạn chế rõ ràng của nó.
Khởi đầu là cuộc nổi dậy tháng Sáu 1862 ở Côn Đảo Đây là cuộc khởi
nghĩa của toàn thể nhân dân trên đảo mà tù nhân là lực lượng đi đầu, do
ông Nguyệt, quê ở Chợ Quán (Sài Gòn cũ) lãnh đạo. Lực lượng tù nhân lúc
đó bao gồm cả những người cựu tù dưới triều Nguyễn (còn 119 người).
Những người lính coi tù thuở đó và con cháu họ cũng là những người đã
từng chống lại các triều Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Họ đã
quét sạch bọn Pháp ra khỏi Côn Đảo, đã phá tan Nhà tù Côn Đảo ngay từ
khi nó mới được thành lập.
Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi vẻ vang, đặt nền móng cho truyền thống
chống ngoại xâm của nhân dân Côn Đảo anh hùng. Sau khi đuổi được bọn
Pháp ra khỏi Côn Đảo, nghĩa quân không biết xây dựng tổ chức chính trị và
phát triển lực lượng, cho nên bọn Pháp đã quay lại đàn áp dã man cuộc
khởi nghĩa.
Nhưng chỉ hai năm sau, năm 1864, những người tù Côn Đảo lại có kế
hoạch đầu độc bọn thủy thủ Pháp trên tàu Đồng Nai, khi tàu này tới đảo.
Việc không thành, một thầy thuốc người Việt và 4 tù nhân bị bắt.
Ngày 1-1-1868, Quản đốc nhà tù Búp (Boube, đại úy hải quân, viên
Quản đốc thứ tư của nhà tù, từ 1868 đến 1869) lại phải đối phó với một
cuộc nổi dậy khác. Hắn được báo trước là tù nhân sẽ tổ chức một cuộc bạo
loạn vào 4 giờ 30, ngày 2-1-1868. Đứng đầu cuộc bạo loạn là một gác dang
người Tagan, tên là Anatôhô (Anatolio) và hai người tù Việt Nam. Người
thứ nhất là Đoàn Văn Đang, người từng tuyên bố “sẽ lột da bọn xâm lược
Pháp làm cờ lấy máu chúng nhuộm đỏ lá cờ”. Người thứ hai là Lê Văn
Phương, một người tù tự nhận rằng đã giết 50 người Tây”. Lập tức cả ba
người này bị xiềng chặt. Sáng ngày 3-1-1868, 19 tù nhân tham gia âm mưu