Đại hội lần IV lên án bọn vô chính phủ và đuổi phái này khỏi Quốc tế
II, đặt ra ngoài hàng ngũ phong trào công nhân có tổ chức.
Năm 1895, Ăngghen mất, gây nên một tổn thất lớn đối với phong trào
công nhân. Bọn cơ hội xét lại dần dần chiếm ưu thế trong Quốc tế II. Chủ
nghĩa đế quốc đã tạo những tiền đề xã hội cho chủ nghĩa cơ hội tồn tại và
phát triển. Cuối thế kỷ XIX, các đảng trong Quốc tế II dần dần thành những
đảng cải lương.
III - CÁCH MẠNG NGA 1905-1907
1. Nước Nga đầu thế kỷ XX
Cuộc cải cách nông nô năm 1861 có ý nghĩa quan trọng là tạo điều
kiện cho chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển nhưng kết quả rất hạn chế, còn
để lại nhiều tàn dư nông nô lạc hậu về chính trị và kinh tế. Kinh tế công
thương nghiệp phát triển cùng với sự xuất hiện của nhiều công ty lũng
đoạn. Đầu thế kỷ XX, nước Nga vẫn tiến vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Đế quốc Nga đã hình thành với những nét riêng của nó, trở thành một nước
đế quốc phong kiến quân phiệt.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền đại sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giai cấp vô sản hiện đại đã xuất hiện và lớn mạnh nhanh chóng. Nền công
nghiệp phát triển tập trung làm cho công nhân Nga cũng tập trung trong các
xí nghiệp lớn. Giai cấp vô sản Nga chịu mọi sự bóc lột, áp bức tàn tệ của
chế độ tư bản chủ nghĩa, không những bị Chính phủ Nga hoàng, giai cấp tư
sản trong nước bóc lột mà còn bị giai cấp tư sản nước ngoài áp bức. Cuộc
khủng hoảng kinh tế 1900-1903 càng làm cho tình cảnh công nhân thêm
điêu đứng. Nhà máy bị đóng cửa, công nhân thất nghiệp tăng, tiền lương
giảm sút, ngày lao động kéo dài từ 12 đến 14 giờ, điều kiện sinh hoạt tồi tệ.
Đó là nguyên nhân làm cho các cuộc đấu tranh chống Nga hoàng ngày càng
tăng.