Về chính trị, nước Nga còn tồn tại hầu như nguyên vẹn bộ máy cai trị
của chính quyền phong kiến cũ. Nga hoàng và giai cấp quý tộc phong kiến
khống chế toàn bộ cuộc sống chính trị của nước Nga.
Để đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, Nga hoàng đã mở cửa cho tư bản
nước ngoài đầu tư vào ngày một nhiều. Do đó, những vị trí then chốt trong
nền kinh tế quốc dân đều do tư bản nước ngoài nắm. Năm 1900, tư bản
nước ngoài đã chiếm khoảng 87,7% cổ phần trong xí nghiệp mỏ, 48,9% cổ
phần trong xí nghiệp chế biến kim khí và sản xuất máy móc. Kết quả là đế
quốc Nga chịu lép vế trong quan hệ với nước ngoài, lệ thuộc bên ngoài.
Pháp là nước cho vay nợ và đầu tư lớn vào Nga, có năm cho Nga vay
chừng 12 tỉ phrăng. Như vậy, nước Nga trở thành đế quốc bị lệ thuộc vào
đế quốc phương Tây, là thành viên không được quyền bình đẳng trong hệ
thống đế quốc. Nó xâm lược nhiều thuộc địa nhưng luôn luôn bị đe dọa, địa
vị không vững vàng. Đế quốc Nga trở thành đồng minh của các nước
phương Tây, cùng xâu xé các nước châu Á, đồng thời nó là dinh lũy phản
động chống đối cách mạng vô sản.
Do những đặc điểm của nước Nga là đế quốc phong kiến quân phiệt,
nên mâu thuẫn giai cấp trong nước Nga đặc biệt gay gắt và phức tạp. Ngoài
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản còn mâu thuẫn giữa địa
chủ quý tộc, tư sản với nông dân và trên một chừng mực có mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản với chế độ phong kiến. Nhưng vì giai cấp tư sản Nga yếu
kém nên nó thường tìm giải pháp thỏa hiệp với chính quyền Nga hoàng để
ngăn ngừa phong trào công nhân.
Do vậy, yêu cầu của sự phát triển tiến bộ nước Nga đòi phải giải quyết
mâu thuẫn giữa sức sản xuất tư bản chủ nghĩa Nga với tàn dư phong kiến
nông nô lạc hậu về chính trị và kinh tế, phải giải quyết mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa tư bản phát triển cao trong công nghiệp và hình thức chiếm hữu
ruộng đất của chế độ nông nô lạc hậu.
Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX trước khi cách mạng
1905 bùng nổ, yêu cầu của một cuộc cách mạng xã hội đã thể hiện trong