chủ yếu của các cuộc bãi công là đòi thực hiện Hiến chương. Cuộc bãi công
thể hiện rõ tính chất chính trị và nâng phong trào công nhân lên mức khởi
nghĩa vũ trang. Chính phủ tiến hành đàn áp, bắt bớ để dập tắt phong trào.
Tuy vậy, cao trào Hiến chương của quần chúng cũng buộc nghị viện phải
thông qua đạo luật rút ngày lao động của công nhân xuống 10 giờ. Đó là sự
lùi bước đầu tiên về nguyên tắc và trên thực tế của giai cấp tư sản trước
cuộc tấn công của công nhân.
Năm 1848, do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế mấy năm trước
và ảnh hưởng của cao trào cách mạng châu Âu, những người thuộc phái
Hiến chương lại tiến hành cuộc đấu tranh lần thứ ba. Mặc dầu chính phủ
ngăn cấm, công nhân vẫn biểu tình ngày 10-4 để đưa lên quốc hội bản kiến
nghị mới gồm hơn 5 triệu chữ ký. Nhưng công nhân đã bị đàn áp.
Trong điều kiện lịch sử lúc đó, phong trào Hiến chương là “một phong
trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên thực sự có tính chất quần chúng và có
hình thức chính trị”.
Ở Đức, cùng với sự phát triển của công nghiệp, giai cấp công nhân
Đức ngày càng lớn mạnh về số lượng và ý thức giác ngộ. Năm 1800 có
chừng 85 nghìn công nhân, năm 1830 lên 450 nghìn và năm 1848 là 900
nghìn, trong đó có khoảng 180 nghìn phụ nữ và 100 nghìn trẻ em. Phần lớn
công nhân Đức còn làm việc trong những xưởng nhỏ nửa thủ công hay các
công trường thủ công. Điều đó hạn chế mức phát triển về ý thức giai cấp và
trình độ chính trị của công nhân. Hơn nữa, chịu sự kiểm soát khắt khe của
nhà nước quý tộc cảnh sát, những nhà cách mạng đều buộc phải bỏ ra nước
ngoài để hoạt động. Năm 1836, họ thành lập “Đồng minh những người
chính nghĩa” mang nhiều quan điểm không tưởng và nguyên tắc tổ chức
còn chịu ảnh hưởng của lối hoạt động âm mưu của Blăngki.
Người hoạt động nổi bật của Đồng minh khi đó là Vinhem Vaitơlinh
(1808-1871). Ông xuất thân từ một gia đình thợ may và bản thân ông cũng
từng làm việc trong xưởng may. Vaitơlinh chủ trương thiết lập xã hội mới
bằng những cuộc bạo động của quần chúng bị áp bức nói chung, chứ không