ước thừa nhận chính quyền Cađe trên 2/3 lãnh thổ. Tuy vậy, cuộc chiến
tranh xâm lược và chống xâm lược vẫn tiếp diễn. Đến những năm 50,
Napôlêông III bành trưống xuống phía nam, sáp nhập vào nước Pháp một
phần lớn đất đai Xahara và hoàn thành việc chinh phục các vùng rừng núi.
Để mở rộng thuộc địa, Napôlêông III câu kết với Anh, Mỹ… nhiều lần
tấn công vào Trung Quốc, buộc triều đình Mãn Thanh phải ký những điều
ước không bình đẳng.
Cuối những năm 50, quân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam.
Từ thế kỷ XVII, những người Pháp đầu tiên đặt chân lên nước ta, đã để lộ
dã tâm muốn chinh phục Việt Nam. Trải qua một quá trình lâu dài vừa
chuẩn bị lực lượng, vừa bị những biến cố lớn lao trong nước ngăn trở (cách
mạng 1789, chiến tranh Napôlêông, thời kỳ Trung hưng, cách mạng 1830,
cách mạng 1848…) nước Pháp mới hạn chế trong một số hoạt động “ngoại
giao”, truyền giáo, gián điệp và một vài cuộc xung đột nhỏ. Đế chế II là
thời kỳ thuận lợi nhất cho việc đẩy mạnh xâm lược Việt Nam. Khi đó, chủ
nghĩa tư bản phát triển đòi hỏi ngày càng cấp thiết thị trường và nguyên
liệu. Nền thống trị tạm thời ổn định và có một số dấu hiệu bề ngoài tựa hồ
như vững vàng để có thể tiến hành những cuộc viễn chinh ở các nơi.
Napôlêông III trông chờ vào những chiến thắng ngoài biên giới để củng cố
địa vị, nâng cao uy tín của Đế chế, vơ vét thêm nhiều của cải. Việt Nam lại
là một vị trí quan trọng ở phía đông, có thể làm bàn đạp tấn công Trung
Quốc, cho nên Napôlêông III tiến hành xâm lược Việt Nam bằng vũ lực.
Năm 1858, sau khi tấn công Quảng Châu, hạm đội Pháp tiến về bắn
phá cửa biển Đà
Nẵng, một vị trí chiến lược quan trọng của nước ta. Tháng 2-1859,
quân Pháp tiến sâu vào nội địa, chiếm lấy Gia Định. Năm 1861, ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ bị thất thủ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường). Trên
con đường tiến quân, quân Pháp luôn luôn vấp phải sức kháng cự kịch liệt
của các tầng lớp nhân dân. Nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn thối
nát không tin vào thắng lợi, đã nhận những điều khoản bất bình đẳng trong