Đảng Dân chủ ra đời năm 1791. Trong nửa đầu thế kỷ XIX., đảng này
thể hiện lợi ích của chủ đồn điền miền Nam và giai cấp tư sản ngân hàng,
thương nghiệp miền Bắc. Đảng còn bao gồm cả tầng lớp tiểu tư sản thành
thị và các phácmơ phản đối chính sách của đại tư sản. Đến năm 1860 Đảng
Dân chủ phân hóa: bộ phận những người dân chủ miền Bắc gồm đại tư sản
và chủ nô muốn củng cố nền kinh tế và địa vị của mình, họ phản đối việc
duy trì chế độ nô lệ ở miền Bắc và miền Tây, bộ phận những người dân chủ
miền Nam, đại diện cho lực lượng chủ đồn điền bảo thủ, phản động, họ chủ
trương duy trì chế độ nô lệ, phân biệt chủng tộc. Trong hàng ngũ chủ nô
còn có một bộ phận ôn hòa hơn, đại diện cho các chủ nô vùng biên giới và
một số bang miền Nam. Cuộc đấu tranh phân hóa chính là sự phản ánh tình
hình xã hội vào trong Đảng Dân chủ. Đảng bị phân chia lực lượng trong
các cuộc bầu cử Tổng thống.
Đảng Cộng hòa thành lập năm 1851, bao gồm những người của Đảng
tự do ruộng đất (Free soil Party) thành lập vào cuối năm 40 của thế kỷ XIX,
và một số người thuộc Đảng Dân chủ tách ra. Cánh hữu của Đảng này đại
diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản và các trại chủ miền Bắc, họ chủ
trương hạn chế chế độ nô lệ. Họ tích cực trong việc khai khẩn đất phía tây,
thi hành chính sách quan thuế bảo đảm quyền lợi giai cấp tư sản Mỹ. Cánh
tả của Đảng này gồm những đại biểu cấp tiến tiểu tư sản, những “phácmơ”
và tư sản thành thị. Chủ trương của họ là đòi giải phóng nô lệ và cấp không
những vùng đất phía tây cho những người không có đất. Đảng Cộng hòa
tuy không hoàn toàn nhất trí với nhau nhưng nó có sức mạnh của quần
chúng và xu thế lịch sử tiến bộ do nền sản xuất quyết định. Nó đã giành
được ưu thế ngay từ đầu. Lãnh tụ của phía Cộng hòa và giai cấp tư sản
công nghiệp là Abraham Lincôn (Abraham Lincoln).
Abraham Lincôn (1809-1865) xuất thân từ một trại chủ nghèo ở
Kentắcki. Bị bọn chủ nô ức hiếp, gia đình ông chạy sang miền Tây để sống.
Thuở nhỏ ông phải lao động vất vả, nhưng nhờ có trí thông minh và lòng
dũng cảm, ông đã trở thành lãnh tụ của xu hướng mới. Năm 1848, ông