Trong những năm 50 - 60 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa nghiệp đoàn
chiếm địa vị thống trị trong phong trào công nhân Anh. Nghiệp đoàn chỉ
kết nạp những công nhân có kỹ thuật, được trả lương cao và do đó, chỉ bao
gồm tầng lớp công nhân quý tộc. Lãnh tụ của các nghiệp đoàn hầu hết là
những phần tử cơ hội chủ nghĩa, được giai cấp tư sản “ưu đãi” nên luôn
luôn đứng trên lập trường tư sản, đối lập với chủ nghĩa xã hội và cách mạng
xã hội, tìm cách đưa công nhân đi vào con đường cải lương, thỏa hiệp và
biến họ thành cái đuôi của giai cấp tư sản.
Những cuộc khủng hoảng kinh tế liên tiếp trong những năm 70 - 80,
sự suy sụp về địa vị bá quyền công nghiệp của nước Anh làm cho đời sống
quần chúng sút kém đã gây một tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân Anh. Từ những năm 70 đã bùng nổ nhiều
cuộc đấu tranh của công nhân cơ khí, công nhân mỏ đòi ngày làm 8 giờ và
của công nhân nông nghiệp. Từ trong cao trào đấu tranh này, ý thức độc lập
của công nhân dần dần được nâng cao, tạo tiền đề cho việc tổ chức những
nghiệp đoàn mới, có sự tham gia của đông đảo công nhân không có kỹ
thuật. Phong trào nghiệp đoàn mới phát triển rất nhanh được sự ủng hộ và
tham gia của đông đảo quần chúng công nhân và do đó, nó tiến hành nhiều
cuộc bãi công thắng lợi.
Những hoạt động của các nghiệp đoàn gặp sự phản ứng của những
người “Liên minh xã hội dân chủ”, thành lập năm 1884, lấy việc đấu tranh
cho đại biểu công nhân vào nghị viện là mục đích chủ yếu, diễn thuyết về
cách mạng nhưng lại không có một đường lối chiến lược và sách lược nào
cụ thể.
Năm 1885, từ trong Liên minh xã hội dân chủ tách ra một cánh tả
“Liên minh xã hội chủ nghĩa” trong đó có Elênôva Ivơlinh (con gái của
Mác) và Tôm Man, người lãnh đạo công nhân khuân vác Luân Đôn. Năm
1890, Liên minh tan rã.
Cùng năm 1884, “Hội Phabiêng” được thành lập. Những người sáng
lập là nhà văn, nhà báo, nhà khoa học… thuộc giới trí thức tư sản, không có