chút liên hệ với công nhân. Họ tuyên truyền chủ nghĩa xã hội tư sản, chủ
trương tiến hành những cuộc cải cách như mở rộng quyền bầu cử, nhấn
mạnh vai trò Nhà nước trong việc điều hòa quan hệ giữa tư bản và lao
động, chữa “bệnh xã hội” bằng những bài văn đả kích, lôi kéo công nhân xa
rời chủ nghĩa Mác. Do khả năng tuyên truyền, phái Phabiêng gây được một
ảnh hưởng nhất định trong phong trào nghiệp đoàn và sau này trở thành bộ
tham mưu tư tưởng của Công đảng Anh.
Đến năm 1893, đại hội của những đảng địa phương thành lập Đảng
Công nhân độc lập (I.W.P). Những người lãnh đạo đảng có thái độ thù địch
với cách mạng, không thừa nhận tư tưởng mácxit và các nguyên tắc xây
dựng đảng vô sản. Trong thực tế, họ đưa đảng đi vào con đường cơ hội.
Như vậy là đến cuối thế kỷ XIX, phong trào công nhân Anh vẫn chịu
ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa cơ hội, chưa thiết lập được chính đảng
cách mạng của mình.
Năm 1900, các nghiệp đoàn tổ chức hội nghị đại biểu cùng với sự
tham gia của hội Phabiêng. Đảng Công nhân độc lập và Liên minh xã hội
dân chủ để thành lập “ủy ban đại biểu công nhân”. Nhiệm vụ của ủy ban là
đưa ra các ứng cử viên công nhân và vận động cho họ vào nghị viện. Năm
1905, ủy ban đổi tên là Đảng lao động thường gọi là Công đảng.
Việc thành lập Công đảng đánh dấu một bước phát triển của phong
trào công nhân Anh, phản ánh xu thế vươn tới một tổ chức thống nhất và
độc lập của công nhân. Nhưng những người lãnh đạo Công đảng không
chịu thừa nhận cương lĩnh xã hội chủ nghĩa, thu hẹp phạm vi hoạt động của
công nhân trong việc bầu cử nghị viện, cố sức hòa giải những cuộc tranh
chấp giữa chủ và thợ.
Năm 1911, cánh tả của đảng Công nhân độc lập và đảng Xã hội dân
chủ (được đổi tên từ
Liên minh xã hội dân chủ năm 1907) triệu tập một cuộc họp cánh tả,
thành lập đảng Xã hội Anh. Cương lĩnh của đảng Xã hội tuyên bố nhiệm vụ
lãnh đạo phong trào công nhân đi theo chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho