toàn bộ cư dân thì đến năm 1901 lên tới 54,3%. Trong đó, tổng số công
nhân năm 1896 là 10,6 triệu chiếm 22% cư dân. Các đường phố chật hẹp,
các thành quách cổ xưa được thay thế bằng những trung tâm công thương
nghiệp sầm uất với những nhà máy có tới hàng vạn công nhân và những
bến cảng tấp nập.
Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp Đức đưa tới hiện tượng
tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức lũng đoạn sớm hơn các nước
khác. Xanhđica “Ranh Vetxphalen” là một trong những độc quyền lớn nhất
của nước Đức, khai thác 87% tổng sản lượng than cả nước. Hãng Krúp nắm
độc quyền trong ngành sản xuất khí giới, sử dụng tới 4 vạn thợ. Những hội
cổ phần được thành lập để tập trung vốn đầu tư: ngân hàng, công ty đường
sắt, đóng tầu… Hình thức tổ chức lũng đoạn phổ biến ở nước Đức là cácten
và xanhđica: năm 1879 có 14, 1885 - 90, 1890 - 210, 1900 - 300.
Tuy nhiên, bên cạnh nền công nghiệp hiện đại, nước Đức còn duy trì
thủ công nghiệp trong một thời gian khá lâu. Đến những năm 80 còn có 2,3
triệu thợ thủ công, trong đó có hơn 67 vạn người làm ở nhà một mình.
Cũng như các nước khác, kinh tế Đức không tránh khỏi những cuộc
khủng hoảng kinh tế chu kỳ mà trầm trọng, nhất là vụ khủng hoảng năm
1873 và tiếp theo là vào năm 1882 và 1890. Phải từ sau năm 90, những
bước tiến về kinh tế mới bộc lộ rõ rệt.
Trong khi đó, nông nghiệp Đức cũng có những bước tiến bộ, nhưng
chậm chạp vì sự tiến hành không triệt để của cuộc cách mạng dân chủ tư
sản. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc và địa chủ. Ở vùng
Đông Phổ, những trang trại lớn trên 100 hecta chiếm 40% - 50% diện tích
cày cấy, có người chiếm đến gần 20 vạn hecta. Đi theo “con đường kiểu
Phổ”, trong khi canh tác theo phương thức tư bản chủ nghĩa (dùng máy
móc, phân bón hóa học, áp dụng kỹ thuật mới…), những tàn dư phong kiến
vẫn được duy trì. Người lao động ở vào địa vị cố nông hoặc tá điền bị bóc
lột thậm tệ, làm việc không kể ngày đêm, bị hành hạ, vẫn chịu gánh nặng
của “đạo luật về những người đầy tớ” ban hành từ đầu thế kỷ XIX và đạo