LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI - Trang 315

như Krúp, Títxen, Kiđrốp, Ximen, Handơman… Tổng số lãi năm 1913 của
những tập đoàn này là 15 tỉ mác.

Trong bước phát triển đó, giai cấp tư sản Đức chú ý xuất khẩu vốn ra

nước ngoài. Năm 1902, số vốn đó là 12,5 tỉ phrăng (bằng 1/5 Anh, 1/2
Pháp), đến 1914 lên 44 tỉ (gần bằng

1/2 Anh và 2/3 Pháp). Đồng thời trong khoảng 1909-1913, hàng xuất

khẩu của Đức tăng

60%. Thị trường đầu tư chủ yếu của Đức là Đông Nam Âu, Cận đông

và Nam Mỹ. Trong tình trạng ít ỏi về thuộc địa, những thị trường trên
không thỏa mãn sự phát triển kinh tế và tham vọng của tư sản Đức. Điều đó
sẽ quyết định “chính sách thế giới” của nước Đức sau này.

II - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ Ở ĐỨC

1. Nhà nước tư sản Gioongke

Nhà nước đế quốc Đức được thành lập sau khi cuộc đấu tranh thống

nhất thắng lợi. Hiến pháp năm 1871 quy định Đức là một quốc gia liên
bang gồm 22 vương quốc và 3 thành phố tự do. Các nước nhỏ vẫn giữ
chính phủ và vua riêng, có quyền hạn riêng về giáo dục, nhà thờ, hành
chính và thu thuế. Còn trong toàn nước Đức có Hội đồng liên bang gồm đại
biểu các vương quốc nhỏ và Quốc hội do bầu cử lập nên. Nhà vua có những
quyền hạn rất lớn như thống lĩnh quân đội, bổ nhiệm và cách chức thủ
tướng, ký kết hiệp ước, ngoại giao, tuyên chiến… Vua có quyền triệu tập,
giải tán và hoãn các phiên họp của Hội đồng liên bang và Quốc hội mà
không chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Thủ tướng chỉ chịu trách nhiệm
trước vua cho nên không bắt buộc phải thực hiện các nghị quyết của Quốc
hội, lại càng không bị bắt buộc phải rút lui khi không được tín nhiệm.
Những sắc luật do Quốc hội thông qua vẫn có thể bị Hội đồng liên bang
bác bỏ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.