quý tộc địa chủ vùng Đông Phổ, chủ trương thiết lập chế độ quân chủ bán
chuyên chế, chiếm các chức vụ quan trọng trong quân đội và trong bộ máy
nhà nước. Tuy rằng có những vấn đề chống lại Bixmác, nó vẫn giữ địa vị
của đảng cầm quyền, có ảnh hưởng lớn trong Quốc hội, luôn luôn đòi tăng
ngân sách quân sự, tăng cường quân đội và giữ giá cao về nông sản. Một bộ
phận của đảng Bảo thủ tách ra thành đảng Đế quốc hay đảng Bảo thủ tự do.
Nó đại diện lợi ích của đại địa chủ, phát triển kinh tế theo con đường tư bản
chủ nghĩa và các trùm công nghiệp (như Krúp, Cácđốpphơ…). Đại diện
cho tư sản công nghiệp lớn là đảng Dân tộc tự do, bênh vực chính sách
tăng cường công nghiệp hóa trong nước và đẩy mạnh chiến tranh giành
thuộc địa, chủ trương củng cố và phát triển quân đội. Hai đảng Đế quốc và
Dân tộc tự do là chỗ dựa cho Bixmác.
Những người tư sản loại vừa và nhỏ cùng với một số trí thức tập hợp
trong “Những người tư tưởng tự do”; trong Quốc hội thường lên tiếng phản
đối các chính sách của chính phủ.
Đảng “Trung tâm Cơ đốc giáo” có ảnh hưởng ở miền Nam và Tây
Nam nước Đức, dựa vào quý tộc của các quốc gia nhỏ ở vùng đó, chống lại
chính sách Phổ hóa. Bằng những tổ chức nhà thờ, nó kéo theo đông đảo
nông dân, thợ thủ công và cả một bộ phận công nhân lạc hậu. Nó đòi quyền
độc lập cho các vương quốc nhỏ và phát triển lực lượng đạo Kitô trong các
trường học.
Những chính đảng trên ít nhiều có sự khác biệt và đôi khi đối lập nhau
nhưng đều đứng trên lập trường của giai cấp bóc lột, bảo vệ lợi ích cho các
giai cấp hữu sản. Giới trùm tài chính thông qua áp lực kinh tế đã chi phối
nhân viên chính phủ, mua chuộc nghị viện, và báo chí định đoạt các chính
sách nội trị và ngoại giao của nhà nước.
Đại đa số quần chúng nhân dân bị bóc lột nặng nề, bị tước đoạt quyền
tuyển cử, bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị của nhà nước. Đấu tranh giành
quyền lợi cho mình, giai cấp công nhân đã thành lập Đảng Xã hội dân chủ
Đúc (1869) và đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính trị nước Đức.