luật năm 1854 bỏ tù những người lãn công. Ở vùng Tây Nam, kinh tế tiểu
nông chiếm ưu thế, nhưng địa chủ cũng chiếm tới hơn 1/4 diện tích cày cấy.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông thôn phân hóa sâu sắc,
phần lớn nông dân nghèo túng hay phá sản phải đi làm thuê cho địa chủ,
phú nông hoặc phải đi kiếm ăn ở các cơ sở công nghiệp.
2. Sự phát triển kinh tế đầu thế kỷ XX và bước chuyển sang
chủ nghĩa đế quốc
Đến đầu thế kỷ XX, tốc độ phát triển của công nghiệp Đức có những
chuyển biến mạnh mẽ. Về tổng sản lượng cũng như về những ngành cơ
bản, Đức đứng vào hàng đầu châu Âu và thứ hai trên thế giới. Đức đuổi kịp
Anh về sản xuất gang thép và đến năm 1912 nó vượt cả Anh và Pháp 5
triệu tấn gang. Các ngành khai mỏ, luyện kim, cơ khí, hóa chất, đường sắt,
đóng tàu biển… đều có những bước tiến tương tự. Thu hoạch nông nghiệp
cũng tăng nhanh chóng trên cơ sở cơ giới hóa lao động và sử dụng phân
bón hóa học. Năm 1909-1913, sản lượng lúa và khoai tăng gấp 2 lần năm
1894-1897.
Quá trình tập trung sản xuất và hình thành những tổ chức lũng đoạn
được đẩy mạnh trên quy mô rất lớn. Không đầy 1% xí nghiệp sử dụng hơn
3/4 tổng số điện lực trong khi 91% là xí nghiệp nhỏ chỉ được nhận có 7%
thôi. Số cácten tăng lên nhanh chóng, năm 1905 có 385, đến năm 1911 có
550 - 600. Ngoài những xanhđica lớn từ trước như “RanhVetxphalen” kiểm
soát hầu hết ngành than đá, “Krúp” - ngành quân giới, còn xuất hiện nhiều
công ty khác: 3 công ty lớn nắm về công nghiệp khai mỏ và luyện kim, 2
công ty về điện, 2 công ty về hóa chất, 2 công ty về hàng hải… 9 nhà ngân
hàng lớn (nhất là Ngân hàng Beclin) kiểm soát 83% tổng số tư bản ngân
hàng cả nước. Bọn chủ ngân hàng thường giữ địa vị quản trị trong nhà máy
và giám đốc ngân hàng thường là chủ nhà máy lớn. Riêng Ngân hàng
Beclin với số vốn 3 tỉ mác có đại diện trong 2.000 xí nghiệp. Lực lượng
kinh tế nước Đức tập trung trong tay khoảng ba chục “vua công nghiệp”