các nước hoặc các vụ tranh chấp giữa các nước châu Âu với khu vực này.
Bằng “chính sách cái gậy lớn”, kết hợp với “chính sách ngoại giao đôla”,
Mỹ đã nắm được về chính trị và kinh tế một số nước Mỹ latinh: Xan
Đômingô, Mêhicô, Nicaragoa…, xác lập quyền khống chế Tây bán cầu.
III - PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG
NHÂN VÀ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TỪ
1870-1914
1. Phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Mỹ
Giai cấp công nhân Mỹ có những đặc điểm khác với giai cấp công
nhân châu Âu. Vùng đất đai rộng lớn ở phía tây là lối thoát cho những công
nhân không chịu nổi ách áp bức của bọn chủ, bỏ sang canh tác và trở thành
phácmơ. Do đó, trong một thời gian tương đối dài, giai cấp vô sản công
nghiệp ở Mỹ không thực ổn định. Thành phần phức tạp trong công nhân, sự
khác nhau về nguồn gốc dân tộc, màu da và ngôn ngữ là một trở ngại rất
lớn. Bọn tư sản lợi dụng điều đó để gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết trong
nội bộ, đồng thời tăng cường bóc lột đông đảo quần chúng lao động cơ bản,
mua chuộc “công nhân quý tộc”, ngăn trở sự trưởng thành về ý thức và sự
hình thành những tổ chức độc lập của công nhân.
Lịch sử đấu tranh của công nhân Mỹ trong những năm 70-80 gắn liền
với phong trào đình công và bãi công sôi nổi khắp cả nước. Cuộc bãi công
của công nhân đường sắt (18771878) lan ra 17 bang, bao gồm các trung
tâm xe lửa, biến thành cuộc bãi công toàn quốc đầu tiên và nhiều nơi mang
tính chất một cuộc nội chiến nhỏ. Công nhân đường sắt, được sự ủng hộ
của công nhân các ngành và của phácmơ, đã chiến đấu dũng cảm chống lại
quân đội và cảnh sát. Mặc dầu bị trấn áp, cao trào 1877-1878 gây được ảnh
hưởng lớn lao trong việc khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Những cuộc biểu tình, đình công và tẩy chay trong những năm 80
xoay quanh khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ. Gần 40 vạn công nhân đã tham