ứng sự phát triển, không đủ sức chống lại sự xâm nhập của đế quốc Âu-
Mỹ.
Nền nông nghiệp dựa trên quan hệ phong kiến, quyền sở hữu đất đai
thuộc về nhà nước phong kiến, tình trạng cát cứ không phù hợp với nhu cầu
phát triển sản xuất. Pháp luật, không công nhận nông dân Nhật có quyền
chiếm hữu đất đai mặc dầu họ được canh tác trên những mảnh đất cha
truyền con nối. Việc mua bán đất bị cấm ngặt, nhưng trong thực tế việc gán
đất đã xảy ra đến quy mô lớn. Vì thiên tai, mất mùa hoặc do bệnh tật trong
các gia đình nông dân, họ không đủ sức nạp nghĩa vụ tô thuế, lao dịch nên
phải gán đất cho nhà giàu ở nông thôn hay chủ buôn bán, người cho vay
nặng lãi ở thành thị. Về hình thức, người nông dân vẫn giữ đất của mình và
tiếp tục cày cấy nhưng thực ra, họ đã trở thành tá điền, không chỉ nộp tô
thuế cho Daimyô mà còn phải nộp tô tiễn hay tô hiện vật cho chủ nợ.
Người phú nông chủ nợ, có quyền sở hữu đất đai, thực tế được gọi là
Dzinusi tức là địa chủ. Ở Nhật Bản lúc bấy giờ còn khuyến khích khai
hoang và dành cho chủ đất nhiều quyền lợi, được miễn thuế trong một thời
gian nhất định. Sắc lệnh khẩn hoang năm 1721 đã tạo điều kiện cho các
thương gia cho vay lãi ở thành thị xuất vốn tham gia khai khẩn đất hoang.
Như vậy độc quyền chiếm hữu đất đai của quý tộc bị phá vỡ ở một mức độ
đáng kể. Bên cạnh những lãnh chúa phong kiến truyền thống đã xuất hiện
giai cấp địa chủ Dzinusi gồm phú nông và các nhà buôn cho vay nặng lãi.
Địa chủ bóc lột nông dân Nhật Bản nặng nề, vượt quá quy định pháp
luật, mức tô thuế trung bình 50% số thu hoạch. Song nông dân, và nhất là tá
điền phải trả tô cho cả lãnh chúa lẫn địa chủ lên tới 70% thu hoạch hay cao
hơn nữa.
Sự phát triển của các quan hệ hàng hóa, tiền tệ, hiện tượng chiếm hữu
đất đai kinh doanh và việc hình thành những quan hệ mới, đã làm thay đổi
các quan hệ trong nông nghiệp.
Diện tích trồng cây phục vụ công nghiệp và thị trường đem lại nhiều
lợi nhuận như các cây bông, dâu, chè, thuốc lá, chàm tăng nhanh. Thời kỳ