Công trường thủ công phân tán, khá phổ biến đem lại hiệu quả cho
nền sản xuất kinh doanh. Nông dân thường nhận nguyên liệu từ những chủ
kinh doanh, sản xuất tại nhà và giao hàng cho chủ theo định kỳ. Sản phẩm
của họ làm ra đều thuộc về chủ. Cũng có nhiều nơi, thực tế nông dân lĩnh
lương của nhà buôn. Ở miền Trung Nhật Bản trên đảo Hônshu trong các
ngành tơ, lụa, kéo sợi, dệt vải, công nghiệp tại gia phát triển nhanh chóng.
Mỗi khu vực trong nước chuyên môn sản xuất một mặt hàng nào đấy. Sự
tiêu thụ ngày càng tăng về vải lụa vào nửa đầu thế kỷ XVIII cho phép xuất
hiện nhiều công trường thủ công dệt. Ở miền Nam trong công quốc
Satsuma ngành sản xuất tơ lụa có nhiều xí nghiệp thuê từ 20 đến 30 công
nhân.
Vào nửa sau thế kỷ XVIII công trường thủ công sản xuất lụa vải xuất
hiện ở nhiều tỉnh, có đến 100 công trường do phong kiến tổ chức quản lý.
Ở Tôkyô năm 1850 có công trường có từ 10 đến 20 máy dệt. Trong những
năm 50 - 60 đã xuất hiện công nghiệp luyện thép và những công xưởng
đóng tàu ở các công quốc phía Tây Nam.
Tuy công nghiệp Nhật Bản có những bước phát triển nhưng gặp nhiều
khó khăn. Tính biệt lập của các công quốc làm xuất hiện hàng rào quan
thuế và đủ thứ hạn chế của chính phủ, đặc biệt là việc cấm nông dân không
được bỏ đất, chạy ra thành thị.
Đến giữa thế kỷ XIX, số công trường thủ công lên tới hàng trăm
nhưng công nghiệp chế tạo vẫn chưa ra đời. Tỉ lệ sản phẩm công nghiệp
Nhật so với thế giới không đáng kể, ngành đúc đồng khoảng 6% và ngành
sản xuất tơ cũng chỉ mới chiếm 10% (năm 1867).
2. Sự tan rã quan hệ giai cấp cũ và xuất hiện giai cấp mới
Mặc dù chính phủ Shôgun cố làm cho nước Nhật vươn lên, nhưng lại
muốn duy trì nguyên trạng các đẳng cấp. Tuy vậy, quy luật phát triển xã hội
đã thay đổi, quan hệ hàng hóa tiền tệ đã làm xói mòn những giá trị tưởng
chừng bất biến, làm thay đổi các đẳng cấp trong xã hội.