xã hội, mở rộng buôn bán với nước ngoài và qua đó, bảo vệ nền độc lập của
đất nước.
Giữa thế kỷ XIX Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm Ấn Độ, một phần
Mã Lai và Miến Điện. Như vậy Xiêm có chung một biên giới dài với các
thuộc địa của Anh. Điều kiện để đánh chiếm Xiêm chưa chín mùi, nên Anh
xâm nhập bằng con đường ngoại giao. Năm 1855 phái đoàn Anh do toàn
quyền Anh ở Hương Cảng là Baorinh dẫn đầu đến Băng Cốc. Vì sợ xảy ra
một cuộc xung đột quân sự khi so sánh lực luợng không cho phép, vua
Xiêm là Mông cút (Rama IV 1851- 1868) nguời đứng đầu phái thứ hai buộc
phải ký với Anh hiệp ước không bình đẳng đầu tiên (4-1855). Hiệp ước quy
định ngoại kiều Anh có quyền lãnh sự tài phán, thị trường Xiêm mở rộng
cửa cho thương nhân Anh. Đồng thời Anh được thiết lập tòa lãnh sự ở
Băng Cốc, thuế đánh vào hàng Anh chỉ bằng 3% giá thị trường, thực dân
Anh có quyền tự do khai mỏ, tự do chở thuốc phiện vào bán ở Xiêm mà
không bị đánh thuế. Thậm chí tàu chiến của Anh có thể đi vào sông Mê
Nam và thả neo ở Pắc Nam.
Năm 1856 Xiêm cũng ký một hiệp ước tương tự nhu thế với Mỹ và
Pháp; năm 1858 ký với Đan Mạch rồi lần lượt ký với Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Đức, Thụy Điển, Na Uy, Ý, Bỉ; năm 1898 ký với Nga. Chủ định của nhà
cầm quyền Xiêm là muốn lợi dụng sự có mặt của các nước tư bản ở Xiêm
để chúng mâu thuẫn và kiềm chế lẫn nhau, trên cơ sở đó Xiêm tránh tai họa
trở thành thuộc địa của một trong các cường quốc tư bản.
Năm 1867 một hiệp ước khác được ký kết giữa Xiêm và Pháp theo đó
Xiêm công nhận quyền bảo hộ của Pháp đối với Campuchia (thực tế Pháp
chiếm Campuchia từ năm 1863). Về phần mình, Pháp nhận nhường cho
Xiêm 2 tỉnh của Campuchia là Báttambăng và Xiêm Riệp. Đây rõ ràng là
sự mua bán, trao đổi của hai kẻ xâm lược đối với đất nước và chủ quyền
của Campuchia.
Việc ký kết các hiệp ước không bình đẳng trên gây nên hậu quả tai hại
đối với xã hội Xiêm. Nó là giai đoạn đầu tiên Xiêm biến thành nước phụ