Ấn Độ trở thành một thị trường tiêu thụ quan trọng nhất của nền công
nghiệp Anh. Trong 10 năm từ 1873-1883, thương mại giữa Anh và Ấn Độ
tăng 60% trong khi thương mại giữa Anh, Pháp và Đức chỉ tăng 7%. Ấn Độ
phải tăng cường cung cấp lương thực và nguyên liệu cho Anh. Cuộc cải
cách tiền tệ năm 1893-1899 với đồng Rupi vàng và việc mở mang hệ thống
ngân hàng Anh làm cho nền tài chính Ấn Độ hoàn toàn lệ thuộc vào Anh.
Ấn Độ còn là thị trường đầu tư của tư bản Anh. Ban đầu, hình thức xuất
vốn chủ yếu là cho vay. Từ năm 1856-1900, ngân hàng Luân Đôn cho bọn
cầm quyền Anh ở Ấn Độ vay tăng từ 4 triệu lên 133 triệu livrơ để chi phí
vào bộ máy hành chính và quân đội, vào những cuộc chiến tranh ăn cướp
các nước phương Đông. Toàn bộ món nợ và số lãi đều đè lên vai quần
chúng nhân dân thuộc địa. Một phần vốn xuất cảng được dùng vào việc xây
dựng đường sắt và các phương tiện giao thông liên lạc để tạo điều kiện khai
thác và vận chuyển nguyên liệu ra bến cảng đưa về Anh. Những đường tàu
kéo dài đến vùng hẻo lánh còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuyển
quân nhanh chóng, kịp thời đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến
năm 1891, đường sắt Ấn Độ dài 27.000km. Một số xí nghiệp công nghiệp
bắt đầu được xây dựng, chủ yếu là những ngành vải sợi, chế biến nguyên
liệu địa phương như đay, bông…
Việc tăng cường xuất cảng nguyên liệu làm cho tính chất hàng hóa của
nông nghiệp thêm đậm nét. Nhiều vùng được chuyên môn hóa sản xuất:
Bengan trồng đay, Bombay và Trung Ấn trồng bông, Átxam trồng chè,
Mađrat trồng cây có dầu, Penjap trồng tiểu mạch. Tính chất hàng hóa của
nông nghiệp tăng lên trong điều kiện chế độ sở hữu phong kiến về ruộng
đất vẫn được duy trì, bãi chăn nuôi, đất đai và rừng của công xã bị chiếm
đoạt, nợ nần chồng chất buộc người nông dân phải gán mảnh đất cuối cùng
của mình và chịu lĩnh canh với điều kiện nộp tô đến 60% hoa lợi. Tình
trạng đó sẽ dẫn tới chỗ sức sản xuất bị sút kém, đời sống nông thôn khốn
quẫn, nạn đói trở thành bệnh kinh niên.
Số lương thực xuất khẩu
Số người chết đói