Sự du nhập chủ nghĩa tư bản Anh vào Ấn Độ đã gây nên tác hại
nghiêm trọng đối với nền thủ công nghiệp và sức sản xuất nói chung ở đây.
Nhưng mặt khác, nó cũng dẫn tới một hậu quả khách quan không tránh
khỏi là sự phát triển một số nhân tố của chủ nghĩa tư bản dân tộc Ấn Độ.
Bên cạnh nhà máy của Anh đã xuất hiện những nhà máy của người Ấn Độ.
Năm 1853, nhà máy bông sợi đầu tiên được khánh thành ở Bombay. Năm
1880 có 156 nhà máy sử dụng 44 nghìn công nhân. Năm 1900 có 193 nhà
máy với 161 nghìn công nhân. Đương nhiên, đó không phải là do ý muốn
của người Anh mà trái lại, giai cấp tư sản Ấn Độ phải đương đầu với rất
nhiều khó khăn nên phát triển rất chậm chạp. Sự suy tàn của ngành thủ
công diễn ra với tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự xuất hiện của các xí
nghiệp dùng máy. Và các xí nghiệp phải chịu sự kiểm soát của “chi sở quản
lý” là cơ quan do các ngân hàng và công ty Anh lập ra. Cho nên các tiểu
chủ, chủ công trường thủ công và chủ nhà máy muốn kinh doanh phải có
nhiều vốn và được bọn cầm quyền Anh “che chở”. Còn tầng lớp đại tư sản
công nghiệp chủ yếu hình thành từ bọn cho vay nặng lãi và bọn mại bản có
liên quan với Anh. Muốn giảm bớt khó khăn, một bộ phận tư sản bỏ vốn
kinh doanh ruộng đất nên thường có liên hệ chặt chẽ với tầng lớp địa chủ.
Tình hình đó làm cho giai cấp tư sản Ấn Độ mang đặc điểm riêng biệt của
nó. Một mặt, do yêu cầu phát triển kinh doanh, nó muốn thoát khỏi sự bó
buộc và chèn ép của thực dân Anh, muốn xây dựng một nước Ấn Độ độc
lập và phồn vinh. Tầng lớp trí thức tiếp thu tư tưởng phương Tây bao gồm
các nhà luật học, thầy thuốc, thầy giáo… càng khao khát quyền dân chủ,
bình đẳng. Nhưng mặt khác, do cơ sở kinh tế yếu ớt, ít nhiều bị lệ thuộc
vào thực dân Anh nên họ thiếu kiên quyết trong quá trình đấu tranh cho nền
độc lập dân tộc.
Phong trào tư sản dân tộc Ấn Độ ra đời từ những năm 70 thế kỷ XIX
thường do các trí thức chủ trì dưới hình thức của các hội khai hóa. Đến cuối
năm 1885, đảng Đại hội Quốc dân toàn Ấn Độ (gọi tắt là đảng Quốc đại)
được thành lập ở Bombay. Trong đại hội đầu tiên, một nửa số đại biểu
thuộc các tầng lớp trí thức tư sản cao cấp, một nửa còn lại bao gồm các nhà