LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN - Trang 71

[16]

- Nomori no Kagami nghĩa là "cái kính của người đi săn" theo

tích Thiên hoàng Yuryaku thời cổ (hậu bán thế kỷ thứ 5) lúc đi săn,
theo dấu con chim ưng trốn thoát đã tìm ra nó nhờ thấy bóng nó in trên
gương nước hồ. YÙ nói "thấy được cái đáng lý khó lòng nhận ra".

[17]

- Có nơi chép là "Thả hỉ" thay vì "Hỉ đắc".

[18]

- Chùa đại bản sơn của phái Myôshinji (Diệu Tâm Tự) thuộc

tông Rinzai (Lâm Tế Nhật Bản) ở Kyôto, xây năm 1337, trước đó
cũng là một ly cung của Thái thượng hoàng Hanazono.

[19]

- Tên chính thức của Eikandô (Vĩnh Quán Đường), chùa tổng

bản sơn phái Tào Động Nhật Bản ở Kyôto, xây năm 855.

[20]

- Còn có thể gọi là "hợp thủy hòa nê" (nhào trộn bùn với

nước) nghĩa là phương pháp sử dụng lời lẽ để làm rõ thiền lý.

[21]

- Tên sách có nghĩa là "con mắt thấu suốt chân lý bao hàm

trong mọi hiện tượng". Nhãn = con mắt, tạng (tàng) : bao trùm cất giữ
, chinh pháp = "chân lý"

[22]

- Khỏa có nghĩa là hạt. Nhất khỏa minh châu = một hạt minh

châu.

[23]

- Môn học chuyên nghiên cứu giáo lý của các tông môn danh

tiếng.

[24]

- Đại Huệ Tông Cảo nhận pháp tự của Viên Ngộ Khắc Cần,

tác giả Bích Nham Lục. Ông là một nhà tư tưởng lớn của tông Lâm
Tế, có công phổ biến thiền công án. Ông phê phán mặc chiếu thiền của
Hoằng Trí Chính Giác và bị Dôgen phê phán ngược lại.

[25]

- Hiện thành là cái bày ra trước mắt, chỉ có mình thấy được

nó là gì, không cần đi tìm ở đâu xa.

[26]

- Phái chủ trương cho rằng người ta tự lúc đầu đã có sẳn khả

năng giác ngộ rồi.

[27]

- Giáo sư Ibuki dùng chữ shiyô (chỉ dương. Chỉ = ngừng,

dương = đưa lên, một từ Nhật tương đương với khái niệm gọi là
Aufheben trong triết học Hegel. Đại ý nói trong biện chứng pháp, khi

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.