kín, cắm đầy cờ quạt. Lại chuẩn bị 1 số thuyền nhẹ, buộc sau thuyền lớn để
khi phóng hỏa thì chuyển người sang, xông pha chiến đấu. Tháng 11, đang
mùa rét đậm, tiết trời bỗng chuyển sang ấm, gió nam nổi lên. Đêm đó
Hoàng Cái đem quân giương buồm trên 10 thuyền lớn dẫn theo thuyền nhỏ,
đi như tên bắn ngược dòng Trường Giang tiến về phía thủy trại Tào. Tướng
sĩ quân Tào nghe tin đại tướng Đông Ngô dẫn chiến thuyền đến hàng, đều
chen chúc đứng trên mũi thuyền trông ngóng. Không ngờ, chiến thuyền
Đông Ngô cách thủy trại quân Tào khoảng 2 dặm thì 10 thuyền lớn đùng
đùng bốc lửa. Lửa nhờ sức gió nhanh chóng bốc cao và như những con
rồng lửa lao và thủy trại Tào. Chiến thuyền quân Tào đã xích chặt vào
nhau, trong lúc bối rối, không gỡ ra kịp nên lập tức bén lửa, bốc cháy. Chỉ
trong chốc lát, mặt sông Trường Giang biến thành 1 biển lửa. Lửa từ thủy
trại lan cả sang doanh trại trên bờ, khiến quân Tào vừa chết cháy, vừa chết
đuối. Quang cảnh kinh hoàng tán loạn, không còn chỉ huy được nữa.
Thấy doanh trại Tào trên bờ bắc bốc cháy, Chu Du lập tức dẫn quân
vượt sông tiến đánh mãnh liệt. Lửa cháy sáng rực, trống trận vang lừng,
tiếng hô giết vang dội khiến quân Tào không biết đối phương có bao nhiêu
quân, không còn dám chống đỡ, chỉ cuống quýt tìm đường tháo chạy. Tào
Tháo dẫn tàn binh bại tướng chạy về theo đường nhỏ Hoa Dung (nay ở tây
nam huyện Tiên Giang, Hồ Bắc). Con đường này rất chật hẹp, lầy lội, kỵ
binh đi lại khó khăn. Tháo vội sai quân chặt cành cây và cắt cỏ lát đường
rồi thúc kỵ binh liều mạng vượt qua. Vì vội vã, số binh lĩnh làm việc lát
đường bị ngựa dẫm chết, nằm la liệt trên đường.
Lưu Bị hiệp lực với Chu Du đem cả quân thủy và bộ đuổi riết tới tận
Nam Quận (nay là Giang Lăng, Hồ Bắc). Mấy chục vạn đại quân vừa chết
bệnh, vừa chết trận mất quá nửa, số còn lại tan tác khắp nơi. Tào Tháo đành
cử Tào Nhân, Tào Hoảng, Nhạc Tiến chia nhau giữ Giang Lăng và Tương
Dương, con mình dẫn tàn binh về Hứa đô. Qua đại chiến Xích Bích, cục
diện phân chia 3 nước đã cơ bản hình thành.