hóa thạch trong lòng đất, chứng minh rằng tổ tiên của loài người là một loại
vượn người nguyên thủy. Ở Trung Quốc đã khai quật hóa thạch của người
vượn cách đây hơn 1 triệu năm, như người vượn Nguyên Mưu ở Vân Nam
cách đây 1 triệu 70 vạn năm, người vượn Lam Điền ở Thiểm Tây có
khoảng 80 vạn năm lịch sử. Còn người vượn Bắc Kinh nổi tiếng thì cũng
cách đây bốn, năm mươi vạn năm. Người vượn Bắc Kinh sống tại vùng
Chu Khẩu Điếm, lúc đó khí hậu miền bắc ấm áp và ẩm thấp hơn bây giờ,
trên và dưới núi đều có rừng cây to, cỏ mọc rậm rạp, nhiều dã thú như hổ,
báo, sói, gấu sinh sống. Ngoài ra có cả voi, tê giác và hươu nai. Sức lực của
người vượn không bằng các loại mãnh thú nhưng họ khác mọi loại vật khác
là biết chế tạo, sử dụng công cụ. Những công cụ thời đó còn rất giản đơn,
làm bằng gỗ và đá, qua sự đẽo gọt thô sơ của người vượn. Người vượn sử
dụng những công cụ để hái quả, đào rễ và củ, đồng thời làm vũ khí để
chống thú dữ. Nhưng vì công cụ quá giản đơn, lại chỉ dựa vào sức cá nhân
nên thức ăn kiếm được không nhiều, họ đành phải sống thành bầy đàn để
cùng nhau lao động và cùng nhau chống lại thú dữ nên được gọi là bầy đàn
nguyên thủy.
Qua mấy chục vạn năm đấu tranh gian khổ, người động vượn gần tiến
hóa. Trong động Sơn Đỉnh ở Long Cốt Sơn thuộc vùng Chu Khẩu Điếm
người ta đã phát hiện di tích của người nguyên thủy có hình dạng rất giống
người hiện đại, loại người đó được gọi là"người động Sơn Đỉnh". Công cụ
lao động của người động Sơn Đỉnh đã tiến bộ rất nhiều, họ không những
làm ra được rìu đá, búa đá mà còn dùng xương thú mà thành kim khâu.
Đừng nên coi thường những chiếc kim này, nhờ chúng người ta đãcó thể
may da thú thành quần áo chứ không còn trần truồng như người vượn Bắc
Kinh nữa. Người động Sơn Đỉnh cũng vẫn sống thành bầy đàn, nhưng bầy
đàn của họđã được chia theo huyết thống, mọi thành viên trong tập đoàn
đều có chung tổ tiên, tức là cùng thuộc một thị tộc. Như vậy xã hội loài
người đã ở vào thời kì công xã thị tộc.
TRUYỀN THUYẾT VỀ DÙI CÂY LẤY LỬA