giữa đường, đoạt được toàn bộ số lương thực đó. Do không được tiếp tế,
Đào Báo không trụ nổi, ngay trong đêm, phải bỏ trận địa rút chạy. Dưới sự
lãnh đạo của Tổ Địch, quân Tấn qua chiến đấu gian khổ, đã thu phục lại
được toàn bộ đất đai phía nam Hoàng Hà. Khá nhiều binh lính của Hậu
Triệu theo hàng Tổ Địch. Sau khi Tấn Nguyên Đế lên ngôi, thấy Tổ Địch
có công lớn, liền phong ông làm Trấn Tây tướng quân. Trong hoàn cảnh
chiến đấu gian khổ, Tổ Địch sát cánh, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, bản
thân hết sức tiết kiệm, có tiền bạc dư thừa đều giúp đỡ cấp dưới. Ông còn
khuyến khích sản xuất, chiêu nạp, phủ dụ những người mới qui phục. Dù là
những người ở địa vị thấp kém và những người không có quan hệ thân
thích, ông đều đối xử nhiệt tình. Do đó, nhân dân vùng mới thu hồi đều
nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ Tổ Địch.
Một hôm, Tổ Địch mở tiệc mời phụ lão địa phương. Mọi người vui
mừng ca hát, nhảy múa. Một số cụ già rưng rưng nước mắt nói: "Chúng tôi
đều già cả rồi, hôm nay còn được sống để gặp lại người thân, thì dù có chết
cũng yên tâm nhắm mắt".
Tổ Địch vừa luyện quân, vừa phát triển thêm quân đội để chuẩn bị tiếp
tục cuộc bắc phạt thu hồi lại vùng đất phía bắc Hoàng Hà. Nào ngờ, Tấn
Nguyên Đế ngu tối, thấy Tổ Địch có lực lượng mạnh thì đem lòng nghi kỵ,
sợ không khống chế được ông liền phái 1 người tin cậy là Đái Uyên là
Chinh Tây tướng quân, nắm quyền chỉ huy quân sự cả 6 châu miền bắc và
đặt Tổ Địch dưới quyền chỉ huy của Đái Uyên. Tổ Địch trải bao gian khổ
mới thu hồi được vùng đất bị mất, nay lại bị triều đình khống chế nên rất
buồn bực. Không lâu sau, lại nghe tin người bạn thân là U Côn đang ở Lưu
Châu bị Vương Đôn cử người bức hại. Lại biết được giữa Tấn Nguyên Đế
và Vương Đôn đang tranh đoạt quyền lực, khi thì công khai, khi thì ngấm
ngầm, nội bộ triều chính chia làm 2 phe kình địch nhau thì lo phiền giận
dữ, cuối cùng bị bệnh mất. Già trẻ trai gái ở Dự Châu nghe tin Tổ Địch
mất, ai ai cũng đau buồn thương tiếc như mất người thân của mình.