Kiến Khang, Tần Hiếu Vũ Đế và bá quan văn võ trong triều đều kinh
hoàng. Quân và dân triều Tấn đều không muốn để Giang Nam rơi vào tay
Tiền Tần. Mọi người cùng trông mong tể tướng Tạ An đứng ra lo liệu công
việc chống Tần.
Tạ An là người Dương Hạ thuộc quận Trần (nay là Thái Khanh, Hà
Nam), xuất thân trong 1 gia đình sĩ tộc. Thời trẻ ông giao du thân thiết với
Vương Hy Chi, thường cùng nhau ngao du sơn thủy, đàm luận thơ văn ở
Đông Sơn thuộc Cối Kê. Tiếng tăm của ông trong giai tầng sĩ đại phu rất
vang dội, ai nấy đều cho ông là người có tài năng lớn. Nhưng ông thích ẩn
cư ở Đông Sơn chứ không thích làm quan. Được nhiều người tiến cử nhưng
ông chỉ ra nhận chức được hơn 1 tháng rồi lại bỏ về. Đương thời, trong giới
sĩ đại phu lưu hành 1 câu vè:
"Tạ An chẳng muốn làm quan
Nhân dân trăm họ biết làm sao đây?"
Đến năm hơn 40 tuổi, ông mới chịu ra làm quan trở lại. Vì Tạ An ẩn
cư lâu dài ở Đông Sơn nên sau này, người ta gọi việc ông ra làm quan lại là
"Đông Sơn tái khởi". Sau khi Phù Kiên phát triển thế lực, biên giới phía
bắc Đông Tấn thường xuyên bị quân Tiền Tần quấy nhiễu. Triều đình muốn
chọn 1 tướng lĩnh văn võ toàn tài lên trấn thủ biên giới. Tạ An tiến cử cháu
(con người anh em của Tạ An) là Tạ Huyền với Tấn Hiếu Vũ Đế. Hiếu Vũ
Đế phong Tạ Huyền làm tướng lên trấn giữ Quảng Lăng (nay là thành phố
Dương Châu thuộc tỉnh Giang Tô), chỉ huy các đạo quân ở Giang Bắc. Tạ
Huyền cũng là 1 nhân tài về quân sự. Sau khi đến Quảng Lăng, ông liền
chiêu binh mãi mã, tổ chức thêm các đội quân phòng thủ. Lúc đó, nhiều
người Hán từ miền bắc chạy xuống, sôi nổi xin sung quân. Trong số họ có
1 người quê ở Bành Thành, tên là Lưu Lao Chi, từ nhỏ đã luyện tập tinh
thông võ nghệ; khi ra trận hết sức dũng mãnh. Tạ Huyền dùng Lưu Lao Chi
làm tham quân, giao cho chỉ huy 1 đội quân tinh nhuệ. Đội quân đó được
Tạ Huyền và Lưu Lao Chi dày công huấn luyện, trở thành 1 đội quân bách