chủ động tiến công địch để giữ thành, giữ nước, sang xa rời nhân dân, ỷ
vào thành trì, vũ khí mà phòng thủ một cách thụ động. Quan điểm đó được
thể hiện rõ trong câu nói của An Dương Vương: "Đà không sợ nỏ thần của
ta sao?"
15
mà sử sách đã ghi.
Sử cũ cho biết, vào năm 210 Tr.CN, Nhâm Ngao và Triệu Đà phát
binh xâm lược nước Âu Lạc. Quân giặc đóng trải ra trên một vùng khá rộng
từ ven sông Cầu (Nguyệt Đức), vùng Tiên Du (Từ Sơn) đến núi Vũ Ninh
(Quế Võ, Bắc Ninh). Quân và dân Âu Lạc do An Dương Vương lãnh đạo
đã chủ động tiến công địch trên vùng đồi Tiên Du, làm cho quân thù gặp
nhiều khốn đốn.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: "Đà đóng quân ở núi Tiên
Du, Bắc Giang, đánh nhau với vua (An Dương Vương - TG). Vua đem nỏ
thần ra bắn, Đà thua chạy... Đà biết vua có nỏ thần, không thể địch nổi, bèn
lui giữ núi Vũ Ninh"
16
. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục
cũng chép: "Triệu Đà biết vua Thục có cái nỏ thần, không thể địch nổi, bèn
lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ sang xin hòa... cho con là Trọng Thủy sang làm
con tin, nhân tiện cầu hôn. .."
17
. Các truyền thuyết dân gian cũng kể rằng,
khi quân của Triệu Đà tiến đến gần Cổ Loa, thì "Vua lấy nỏ thần ra bắn,
quân Đà thua lớn, chạy về Trâu Sơn cầm cự với nhà vua, không dám đối
chiến"
18
.
Như vậy là trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Triệu,
thực hiện cách đánh chủ động, quân và dân Âu Lạc đã nhiều lần chặn đứng,
đẩy lùi cuộc xâm lược dai dẳng của Triệu Đà. Thắng lợi đó đã khiến An
Dương Vương về sau nảy sinh tâm lý chủ quan, khinh địch, ỷ vào vũ khí
nên không còn chủ động tiến công mà giữ thành đợi giặc. Bởi vậy, khi
Triệu Đà thực hiện mưu kế xin "giảng hòa", An Dương Vương đã bất chấp
sự can gián của quần thần, chấp thuận cho con trai của Triệu Đà là Trọng
Thủy làm rể. "Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con
gái vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng"
19
.