Cũng cần thấy rằng, sở dĩ nhân dân ta có thể nhanh chóng nổi dậy
đồng loạt dưới cờ đại nghĩa của Hai Bà Trưng hay của Lý Bí, cùng nhiều vị
anh hùng dân tộc khác và cùng nghĩa quân đánh giặc, là vì trong những
đêm dài nô lệ, nhân dân ta vẫn giữ được quyền làm chủ ở các làng xã, vẫn
giữ được bản sắc văn hóa của mình, không để bị đồng hóa. Đó là nền
móng, cơ sở vững chắc, để hình thành nên phương thức đấu tranh giải
phóng rất hiệu quả, giành chiến thắng vẻ vang.
Khởi nghĩa và chiến tranh toàn dân với mục tiêu giành độc lập, có
sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ giữa
tác chiến với nổi dậy của nghĩa quân và nhân dân, đó là những quan điểm
quân sự nổi bật mà dân tộc ta sớm đúc kết, vận dụng trong cuộc đấu tranh
chống Bắc thuộc từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VI, nhất là trong hai cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Lý Bí. Những quan điểm đó được duy trì, tiếp
tục phát triển và biểu hiện phong phú hơn ở giai đoạn đấu tranh sau.
2. Tư tưởng quân sự giai đoạn đấu tranh chống ách đô hộ nhà Tùy và nhà Đường
Từ thế kỷ VII, nước ta lại rơi vào ách thống trị của nhà Tùy (603-
618), rồi nhà Đường (618-905). Kế tục chính sách bành trướng của các
triều đại phong kiến Trung Hoa trước, nhà Tùy, đặc biệt là nhà Đường đẩy
mạnh việc chinh phục, mở rộng lãnh thổ ra các phía. Từ Triều Tiên tới Iran,
từ lưu vực sông Ili (Trung Á) đến miền Trung nước ta ngày nay. Tình hình
đó được thể hiện rất rõ trong câu nói của Đường Thái Tông: "Chinh phục
Man Di ngày trước, chỉ có Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế. Ta nay với
thanh gươm ba thước, ta đã khuất phục hai mươi vương quốc, dẹp yên bốn
biển, bọn Man Di ở cõi xa cũng lần lượt quy phục"
29
.
Nhà Tùy cũng như nhà Đường, sau khi chiếm được nước ta đều chú
trọng việc tổ chức chặt chẽ hơn bộ máy thống trị của chính quyền đô hộ.