phải là phúc của nhân dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo dùng từ lệnh
thì mới dập tắt được binh lửa..."
69
.
Nhưng, quan hệ đối ngoại nói chung, bang giao với các quốc gia láng giềng nói riêng,
thế và lực của đất nước luôn là một nhân tố giữ vai trò quyết định. Đây thực sự là một quy
luật trong quan hệ quốc tế, mà ngay cả những nước lớn cũng không bao giờ xem nhẹ. Cũng vì
vậy, sau thất bại mùa Xuân năm Kỷ Dậu, nhà Thanh không còn có thể xem thường sức mạnh
của Đại Việt. Điều này được thể hiện qua lời nói của vua nhà Thanh là Càn Long trước triều
thần, rằng: "… Nếu đem quân sang lấy được cả nước thì lại phải phái nhiều binh lính sang
phòng giữ. Dân tình An Nam lại hay phản phúc (!), những triều đại trước đã đặt làm quận,
huyện nhưng không được bao lâu họ lại sinh biến, hiện có những gương tày liếp. Bây giờ ta
lấy đất đai của họ, biết đâu một vài chục năm nữa họ lại chẳng sinh sự”. Và, "Tóm lại bây giờ
ta không nên đánh thì chi bằng hãy nên khoan hồng một chút để bọn Nguyễn Huệ thành tâm
quy thuận. Thế là không phải dùng đến binh lực mà được việc là hay hơn cả”
70
. Và tất nhiên,
những ý đồ này đã nhanh chóng được Tây Sơn - Nguyễn Huệ nắm bắt.
Với tư tưởng chủ động nối lại quan hệ bang giao với triều Thanh sớm được hình thành
như vậy, nên khi nhận được thư của nhà Thanh "chấp nhận" nối lại mối giao hảo, triều Tây
Sơn - Nguyễn Huệ liền cử người trực tiếp sang thương thảo, sẵn sàng trao trả tù binh và triều
cống. Tuy vậy, về tư tưởng chỉ đạo, triều Tây Sơn một mặt tỏ ra mềm dẻo, cầu thị muốn sớm
giảng hoà, nối lại quan hệ bang giao; song mặt khác cũng vẫn giữ thái độ cứng rắn, sẵn sàng
đối phó với những âm mưu, hành động xâm lược mới của nhà Thanh. Trước nhất trong biểu
thư gửi vua nhà Thanh "xin làm" An Nam Quốc vương, Nguyễn Huệ viết:
“Cúi nghĩ Đại Hoàng đế đặt mình vào địa vị trời thi hành giáo hoá, thuận lẽ tự nhiên,
tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sỹ Nghị, lượng xét cho thần đã lắm lần gõ cửa quan
trần tấu, cho thần làm An Nam Quốc vương để có sự nắm giữ toàn cõi. Thần kính cẩn sai sứ
đến triều khuyết vâng lịnh làm phiên thần nộp cống cùng đem những người hiện còn lại cho
về giao nộp để tỏ lòng chí thành.
Nay, đường đường là Triều đình Thiên tử lại đi so hơn thua với nước rợ nhỏ thì ắt là
muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật
cái lòng của Thánh thượng không nhẫn.
Trong muôn một nếu can qua nối tiếp không dứt, tình thế đến nỗi nào thì thật không
phải do thần muốn mà thần cũng không dám biết đến nữa”
71
.
Tiếp đến, trong thư gửi cho viên tướng nhà Thanh trấn ở Quảng Tây là Thang Hùng
Nghiệp của Quang Trung có đoạn: "(...) Còn như quân lính thì cốt hoà thuận không cốt đông,
cốt tinh nhuệ không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải
lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít. Ví bằng chút tình trước đây không được bày tỏ, thiên triều
không chịu khoan dung một chút, cứ muốn động binh để tranh chiến, thế là làm cho nước nhỏ
không được phục sự thờ nước lớn, thì bấy giờ Đại quốc (nhà Thanh) có dạy bảo gì, tôi cũng