chỉ xin theo thôi (ý nói: có muốn đánh nhau thì sẽ đánh cho mà coi...)"
72
. Sở dĩ Tây
Sơn - Nguyễn Huệ đưa ra được quan điểm tư tưởng mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết như
vậy là chính bởi thế và lực về quân sự nói riêng, chế độ nói chung của Đại Việt rất vững chắc.
Đó là chưa kể tiếp đến việc sau khi hoà hiếu với triều Thanh, Quang Trung còn viết thư gửi
Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An yêu cầu trả lại phần đất 7 châu thuộc Hưng Hoá
mà nhà Thanh đã xâm lấn trước đó. Nhưng rồi sau nhiều lần cử sứ bộ sang thương lượng
không thành công, càng làm cho Tây Sơn - Nguyễn Huệ kiên định tư tưởng củng cố quốc
phòng, xây dựng một quân đội mạnh để tạo áp lực, quyết giành lại chủ quyền phần đất đã
mất - đó là “Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước
giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”
73
. Trong Tạp chí Thế giới mới, số 301, phát hành ngày
31-8-1998, tác giả Bá Phùng nhận định: Lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Hoa
cho đến giai đoạn ấy (Tây Sơn) chưa có triều đại phong kiến Việt Nam nào có được vị trí cao,
có tư thế vững chắc, tự chủ mạnh như Tây Sơn. Tư tưởng chỉ đạo ngoại giao quân sự của
vương triều Tây Sơn rất khéo léo nhưng cương quyết giữ vững lập trường của mình.
Chiến thắng vang dội quân đội Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút năm Giáp Thìn (1784),
rồi tiếp đến là cuộc đại phá quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789)
đã làm cho thanh thế của Đại Việt lan ra khắp các quốc gia láng giềng. Đây cũng thực sự là cơ
hội để Tây Sơn - Nguyễn Huệ thực hiện tư tưởng hoà hiếu trong bang giao, giữ yên biên
cương, tạo ổn định cho công cuộc xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng. Do vậy, ngoài nhà
Thanh, trong quan hệ với Miến Điện, triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã chấp nhận quốc thư giao
hiếu đầy thiện chí và cầu thị của vua Miến Điện, đó là: "... Bên mặt trời lặn, bên mặt trời mọc,
cũng là một trời, chẳng lấy gì làm xa lắm. Từ nay bắc cầu vàng, cầu bạc đi lại với nhau thì
càng thêm bền chặt, tươi đẹp”
74
. Vậy là, quan hệ giữa Đại Việt với Miến Điện được giải quyết
tốt đẹp.
Riêng trong quan hệ với Vạn Tượng thì gặp phải những khó khăn nhất định. Đó là,
vào năm Canh Tuất (1790), Tây Sơn - Nguyễn Huệ cử sứ giả sang Viêng Chăn thông hiếu
nhưng đã bị thế lực thân Xiêm của triều đình Vạn Tượng bắt giữ và giải sang Xiêm (phong
kiến Xiêm thống trị Vạn Tượng và lập nên vương triều Chậu Nan (1782-1792)). Trước tình
thế này, năm Tân Hợi (1791), Tây Sơn đã đưa quân sang đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Viêng
Chăn và truy kích chúng đến tận biên giới. Hành động cứng rắn của Tây Sơn đã được nhân
dân và nhiều tù trưởng yêu nước Vạn Tượng hết lòng đồng tình, hưởng ứng cùng chống lại
quân Xiêm. Điều này được ghi rõ trong Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế kỷ XIX, như:
Chậu Mường Xiêng Khoảng đã đem 3.000 quân phối hợp chiến đấu với quân Tây Sơn.
Những năm sau đó, nhiều chúa Lào yêu nước vẫn giữ mối liên hệ với chính quyền Tây Sơn
qua đồn Quỳ Hợp và Đốc trấn Nghệ An để thông báo tình hình và mong quân Tây Sơn sang
giúp Lào đánh đuổi quân Xiêm.
Tóm lại, trong suốt quá trình chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh cũng như xây dựng đất
nước, việc giao hảo với các quốc gia láng giềng lân bang đã được Tây Sơn sớm chăm lo, giải