nhân dân, của lòng dân, gắn bó chặt chẽ quyền lợi của vương triều,
dòng họ với lợi ích tối cao của đất nước, của muôn dân, các vương
triều phong kiến tiến bộ đã giương cao ngọn cờ đại nghĩa dân tộc, quy
tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, thực hiện những hình thức dân chủ
nhất định để phát huy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết chống
ngoại xâm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của Việt Nam trước đây, tiến
hành chiến tranh yêu nước không chỉ có quân đội của nhà nước phong
kiến, mà còn có lực lượng dân binh và mở rộng ra là lực lượng toàn
dân trong cả nước. Quân và dân cùng chung sức chiến đấu trên mặt
trận quân sự cũng như các mặt trận khác. Các thời Lê, Lý, Trần đều áp
dụng chính sách "ngụ binh ư nông", thực hiện "trăm họ đều là binh"...
Ở thời kỳ hiện đại, đường lối chiến tranh toàn dân của Đảng
còn là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân
dân trong cách mạng, về động viên toàn dân, vũ trang rộng rãi quần
chúng cách mạng và xây dựng quân đội cách mạng kiểu mới vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. V.I. Lênin để tổng kết: Để tiến hành chiến
tranh, phải động viên toàn bộ mọi lực lượng trong nhân dân. Phải biến
cả nước thành một dinh luỹ cách mạng. Tất cả hãy chi viện cho chiến
tranh và tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước đều phải
dành cho công cuộc bảo vệ cách mạng.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, sức mạnh đánh thắng kẻ
thù không thể chỉ dựa vào quân đội thường trực, càng không thể chỉ
dựa vào trang bị vũ khí, mà trước hết và chủ yếu cần phải dựa vào việc
phát huy sức mạnh của toàn dân theo một đường lối đúng đắn, hiệu
quả.
Kế thừa truyền thống "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc"
từ cha ông để lại; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh "cách mệnh là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"
2
, "Nước lấy
dân là gốc"
3
; vận dụng lý luận của học thuyết Mác - Lênin về vai trò