quân đội Nhật thực chất là đưa quân hợp pháp ra miền Bắc Việt Nam thực
hiện âm mưu thôn tính cả nước. Trong khi đó, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc
đang phát triển mạnh mẽ, đe dọa đến nền thống trị của Mỹ - Tưởng ở đại
lục. Tưởng Giới Thạch và đế quốc Mỹ thấy cần phải tập trung lực lượng về
đối phó với cách mạng trong nước, do đó đã đồng ý đề nghị thoả hiệp của
đế quốc Pháp để rút quân về nước. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp
được ký kết
9
.
Thoả hiệp giữa Tưởng - Pháp đặt ra cho cách mạng Việt Nam hai
lựa chọn: một là, lập tức cầm súng, kiên quyết tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp ngay khi chúng đưa quân ra miền Bắc; hai là, chủ
động đàm phán ngay với Pháp để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng về
nước và tranh thủ thời gian nhằm chuẩn bị những tiền đề cần thiết để bước
vào cuộc kháng chiến với Pháp sau này.
Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định chọn giải pháp thứ
hai. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã ký với Xanhtơni
10
là đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định
sơ bộ
11
. Nhưng ngay sau khi ký Hiệp định, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây
nên những cuộc xung đột vũ trang ở Nam Bộ, thành lập Chính phủ Nam Kỳ
tự trị do Nguyễn Văn Thinh
12
cầm đầu hòng thực hiện âm mưu tách Nam
Kỳ ra khỏi Việt Nam. Cuộc đàm phán giữa hai bên (được tổ chức tại
Phôngtennơblô - Pháp), diễn ra rất gay go. Sau hơn hai tháng, cuộc đàm
phán không đạt được bất kỳ kết quả nào. Trong khi đó, tại Đông Dương,
quân đội Pháp tăng cường các hoạt động khiêu khích, quan hệ Việt - Pháp
căng thẳng. Để có thêm thời gian hoà bình xây dựng lực lượng, chuẩn bị
tiềm lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến, ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký
với Chính phủ Pháp bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số
quyền lợi ở Việt Nam.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn, nhân dân Việt Nam ra sức củng cố và
phát triển lực lượng về mọi mặt. Nhằm củng cố chính quyền dân chủ nhân