Giai đoạn đầu, từ phong trào Đồng khởi đến đánh bại chiến
lược chiến tranh đặc biệt (1961 - 1965). Trong giai đoạn này, bộ đội
giải phóng trên chiến trường miền Nam chủ yếu vận dụng các hình
thức chiến thuật đã được tổng kết trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp. Đó là chiến thuật vận động tiến công, đánh địch đổ bộ
đường không, tập kích.
Giai đoạn thứ hai, giai đoạn đánh thắng chiến lược chiến tranh
cục bộ (1965 - 1968). Trước đối tượng có quân số đông, vũ khí trang
bị dồi dào, hiện đại, có hỏa lực và sức cơ động cao, lại chiếm ưu thế
áp đảo trên biển, trên sông, trên không nên trong giai đoạn này, để
đương đầu và đánh bại địch, Đảng chủ trương đẩy mạnh đánh đêm và
đánh gần, "bám thắt lưng Mỹ mà đánh". Vì vậy, ở miền Nam, hình
thức chiến thuật mà lực lượng vũ trang vận dụng và phát triển rộng rãi
là tập kích (chiếm 54,14% trong tổng số trận đánh), vận động tiến
công (thường là vận động tiến công kết hợp chốt), phục kích.
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn đánh thắng chiến lược "Việt Nam
hoá chiến tranh" (1969 - 1975). Trong giai đoạn này, lực lượng vũ
trang trên chiến trường vận dụng và phát triển các loại hình chiến
thuật như tập kích, vận động tiến công địch đang cơ động, tạm dựng
hoặc mới chuyển vào phòng ngự nhưng chưa có công sự vững chắc;
tiến công địch phòng ngự trong công sự vững. Trong giai đoạn từ
1961 - 1975, chiến thuật của lực lượng vũ trang cách mạng trong
kháng chiến chống Mỹ có sự phát triển liên tục, mạnh mẽ, với những
hình thức và thủ đoạn chiến thuật chủ yếu như:
Chiến thuật của chiến tranh du kích là hình thức chiến thuật cơ
bản trong hoạt động đấu tranh vũ trang của đông đảo quần chúng cách
mạng, bao gồm cả lực lượng vũ trang ở các thôn, ấp, bản, xã, xí
nghiệp, thị trấn, thành phố và những đơn vị vũ trang tập trung như của
các địa phương và một số đơn vị chủ lực hoạt động phân tán. Cách
đánh của các lực lượng này là sử dụng lực lượng nhỏ, cơ động, linh