tuyến, bảo đảm cho bộ đội ăn no, đánh thắng. Trước khi cả nước bước vào
cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như trong những năm đầu kháng chiến
chống Mỹ, Đảng ta chủ trương đưa hàng vạn tấn máy móc, trang thiết bị
lên vùng rừng núi, vào các vùng tự do, ra các căn cứ địa, tổ chức sản xuất,
sửa chữa vũ khí, hình thành và phát triển hệ thống công binh xưởng rộng
khắp suốt từ Bắc chí Nam nhằm đáp ứng nhu cầu kháng chiến trước mắt,
đồng thời đặt nền móng cho một nền công nghiệp quốc phòng về sau. Để
xây dựng cơ sở ban đầu cho nền công nghiệp vừa mới manh nha, Đảng chủ
trương vừa triệt để tận dụng hạ tầng của chế độ cũ để lại như nhà máy, hầm
lò, các công trường khai khoáng...; vừa khẩn trương bắt tay phục hồi và xây
dựng mới các nhà máy, công binh xưởng. Các cơ sở công nghiệp này vừa
phục vụ được nhu cầu quốc phòng, vừa đáp ứng được một phần của nhu
cầu dân sinh. Trong phát triển công nghiệp, Đảng chủ trương không chỉ chú
trọng vào công nghiệp quốc phòng mà còn phải phát triển cả các cơ sở
công nghiệp nhẹ để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong đời sống của nhân
dân và lực lượng vũ trang.
Kháng chiến càng trường kỳ, càng phải coi trọng phát triển nền kinh
tế. Trong quá trình đó, “phải bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế của ta,
đấu tranh kinh tế với địch”
4
. Nghĩa là vừa làm cho kinh tế kháng chiến
không ngừng lớn mạnh nhưng đồng thời cũng phải làm cho kinh tế của
địch suy yếu.
Nắm vững tư tưởng trên, Đảng đã đề ra và thực hiện một số chủ
trương như “tiêu thổ kháng chiến” (trong kháng chiến chống Pháp) hay phá
“ấp dân sinh”, tổ chức “cửa khẩu” ra vào căn cứ địa... (trong kháng chiến
chống Mỹ). Những chủ trương đó đã gây cho đối phương nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện ý đồ “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Đi đôi với phát triển sản xuất, Đảng ta chủ trương từng bước xoá bỏ
quan hệ sản xuất phong kiến thực dân, thay vào đó bằng việc hình thành
các cơ sở kinh tế dân chủ nhân dân với các mô hình tổ chức và cơ cấu
chính sách ngày càng được hoàn thiện. Một trong những nội dung quan