quân, toàn dân củng cố và nâng cao quyết tâm đánh đế quốc Mỹ và thắng
đế quốc Mỹ.
Khi Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, hoạt động xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhanh chóng được chuyển sang thời
chiến. Để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại với cường độ cao của đế
quốc Mỹ, xuất phát từ tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng,
Chính phủ ta đã triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, trong chống phong
tỏa của địch, toàn dân tham gia bảo đảm giao thông, tổ chức phòng - tránh,
sơ tán chu đáo.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, một mặt, nhân dân Việt Nam
vừa tiến hành phòng tránh, đánh địch; mặt khác, vẫn tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Để thích ứng với tình hình, nền kinh tế miền Bắc
được chuyển sang kinh tế thời chiến. Hợp tác hóa được xác định là động
lực phát triển sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã là hạt nhân của phong trào
thi đua lao động sản xuất ở nông thôn miền Bắc. Chế độ phân phối thời
chiến tuy còn những mặt hạn chế, nhưng trong bối cảnh chiến tranh, việc
triển khai thực hiện chế độ phân phối thời chiến một cách hợp lý đã mang
lại hiệu quả thiết thực, góp phần giữ được sự ổn định trong đời sống nhân
dân. Cũng cần thấy rằng, cuộc chuyển dịch từ sự tách rời tương đối giữa
xây dựng và kháng chiến đến sự gắn kết chặt chẽ “toàn dân kháng chiến” từ
những năm 1960 chính là thành quả vận động toàn dân, toàn diện. Một nhà
nước kháng chiến và một xã hội chuyển mạnh sang thời chiến chính là ý
chí chính trị và nền tảng xã hội căn bản nhất cho chiến tranh nhân dân.
Từ giữa năm 1965, khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” được thay thế bằng “Chiến tranh cục bộ” thì hoạt
động kháng chiến và kiến quốc ở miền Bắc cũng được đẩy lên một bước
mới. Với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”, tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đã đi vào cuộc sống
và tạo thành những phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng nhân dân
như: “Ba sẵn sàng, ba đảm đang”, “tay búa, tay súng”, “cánh đồng 5 tấn