Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là tuyệt đối hoá tư tưởng chiến
lược tiến công, bởi trong quá trình củng cố, xây dựng căn cứ địa - hậu
phương chiến tranh phải tuỳ theo tình hình và đánh giá tương quan lực
lượng trong từng thời điểm cụ thể mà có thể quán triệt cả tư tưởng phòng
ngự. Tất nhiên, phải xác định rõ: phòng ngự chỉ mang tính nhất thời và
sách lược.
Căn cứ địa - hậu phương được xây dựng, củng cố thường xuyên như
một tiến trình bộ phận trong công cuộc xây dựng chế độ mới, đồng thời
cũng cho thấy sự phát triển liên tục của cách mạng Việt Nam từ Bắc vào
Nam, từ chế độ mới đến giải phóng hoàn toàn, từ phân chia đến thống nhất.
Tư tưởng đó được hình thành và phát triển trên cơ sở hoàn cảnh thực tế của
cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam, có kế thừa truyền thống xây dựng
đất đứng chân, xây dựng tiềm lực trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc, có tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và có cả sự tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm kho tàng lịch sử quân
sự thế giới. Tư tưởng đó chỉ rõ: muốn xây dựng căn cứ địa làm chỗ đứng
chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, nơi tích luỹ lực lượng chính trị
và lực lượng vũ trang, nơi giải quyết vấn đề hậu cần cho các lực lượng
kháng chiến..., cần phải chọn những vùng có dân, có cơ sở tốt, “có thế
chiến lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ”. Những vùng đó có thể
nằm trong địa bàn của một chiến khu (hoặc một khu); cũng có thể là một
tỉnh, một huyện, thậm chí rộng hơn là liên tỉnh, liên huyện, liên khu...
Như thế, xây dựng căn cứ địa - hậu phương, xây dựng chế độ mới
trong chiến tranh là một quá trình phát triển đi từ không đến có, từ nhỏ đến
lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chiến tranh càng phát triển, tính
chất và mức độ tàn phá, huỷ hoại càng cao, căn cứ địa - hậu phương muốn
đứng vững được trong mọi thử thách và phát huy được vai trò to lớn của
mình thì cần phải được xây dựng, củng cố một cách liên tục và toàn diện.