trường; nơi xây dựng và từng bước củng cố chế độ mới; nơi chi viện sức
người, sức của và là chỗ dựa tinh thần cổ vũ tiền tuyến đánh giặc.
Xuất phát từ đặc điểm về điều kiện địa lý, tự nhiên, xã hội và đặc
điểm của cuộc chiến tranh nhân dân mà tư tưởng về xây dựng căn cứ địa -
hậu phương, xây dựng chế độ mới ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt.
Không giống như ở một số nước căn cứ địa chủ yếu được xây dựng ở vùng
rừng núi hiểm trở, hệ thống căn cứ địa ở Việt Nam không chỉ được xây
dựng ở vùng rừng núi mà được mở rộng ở khắp mọi nơi: từ vùng rừng núi
đến đồng bằng ven biển, từ vùng giải phóng đến vùng sau lưng địch... Xét
về quy mô, hệ thống căn cứ địa ở Việt Nam cũng hết sức phong phú, đa
dạng: Có căn cứ địa của Trung ương, căn cứ địa của vùng, miền, có các căn
cứ địa của địa phương (tỉnh, huyện...). Tương tự như vậy, có hậu phương
tại chỗ và hậu phương của cả nước. Cùng với việc xây dựng hậu phương tại
chỗ là xây dựng và không ngừng củng cố hậu phương lớn của cả nước; mở
rộng các vùng tự do, vùng giải phóng; hình thành các căn cứ lõm, căn cứ du
kích, khu du kích...
Cuộc chiến tranh giải phóng (1945-1975) của dân tộc Việt Nam là
một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ, bởi vậy, tư tưởng
về xây dựng căn cứ địa - hậu phương chiến tranh không còn bó hẹp như tư
tưởng về xây dựng căn cứ kháng chiến của cha ông trước đây, mà đã được
phát triển, mở rộng lên một tầm cao mới. Đó là để tiến hành kháng chiến,
cần phải xây dựng một hệ thống căn cứ địa - hậu phương với các cấp độ
khác nhau: có căn cứ hậu phương của cả nước; có căn cứ - hậu phương của
từng vùng, từng hướng chiến lược, của từng chiến trường; có căn cứ hậu
phương của từng khu, liên khu, chiến khu; căn cứ - hậu phương của liên
tỉnh, tỉnh, thành phố, huyện, liên huyện; thậm chí có cả căn cứ liên xã. Đó
không chỉ đơn thuần là vùng tự do, vùng giải phóng mà còn bao gồm cả
những chỗ đứng chân của lực lượng cách mạng và ba thứ quân ở vùng sau
lưng địch
19
.