- Giúp cho công nông hội tổ chức đội tự vệ.
- Vận động trong quân đội của bọn địch nhơn”
6
.
Đảng cũng xác định rõ phương hướng và một số nguyên tắc
xây dựng lực lượng vũ trang là trên cơ sở các đội tự vệ tiến lên xây
dựng các đội du kích để tiến hành “du kích chiến tranh, võ trang bạo
động”, sau khi giành được chính quyền thì xây dựng “Hồng quân của
Nhà nước Xô viết công nông”
7
và “Luôn luôn phải giữ tính chất cách
mạng của Đội Tự vệ,... giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong
Tự vệ thường trực”
8
để bảo đảm nắm chắc được lực lượng vũ trang.
Vấn đề này tiếp tục được Đảng khẳng định trong thời kỳ trực tiếp đấu
tranh giành chính quyền. Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, thực dân
Pháp lúc này thi hành chính sách phát xít hóa bộ máy cai trị và thẳng
tay đàn áp, bóc lột nhân dân Đông Dương. Sau đó, Nhật nhẩy vào xâm
chiếm Đông Dương, đặt nhân dân ba nước Đông Dương vào tình thế
một cổ hai tròng. Tình hình đó khiến cho các dân tộc Đông Dương
thấy rõ đã đến lúc phải đứng lên đấu tranh.
Từ năm 1954, đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn sử dụng
bộ máy cảnh sát, quân đội ra sức đàn áp nhân dân miền Nam. Nhân
dân miền Nam không thể tiếp tục đấu tranh hoà bình với địch mà chỉ
có một con đường duy nhất là sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan
bạo lực phản cách mạng. Thực tiễn cách mạng miền Nam đã minh
chứng con đường bạo lực cách mạng mà nhân dân miền Nam đã chọn
là đúng đắn. Việt Nam đã sử dụng sáng tạo cách mạng bạo lực, xuất
phát từ mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, từ đó
xác định nhiệm vụ quân sự và thực hiện nhiệm vụ quân sự đạt được
mục tiêu chính trị. Có thể nói rằng, việc quán triệt sâu sắc quan điểm
bạo lực cách mạng cũng chính là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang
của Đảng.
Xuất phát từ tư tưởng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần
chúng, Đảng đã đề ra và giải quyết các vấn đề về khởi nghĩa và vũ