Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
truyền thống và kinh nghiệm quý báu của dân tộc, ngay từ khi mới ra
đời, Đảng ta đã đề ra chủ trương về lực lượng vũ trang quần chúng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn quan tâm
xây dựng, lực lượng đó ngày càng phát triển, góp phần quyết định
đánh thắng những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất của thời đại.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang (1945-
1975), Đảng luôn xác định dân quân là một lực lượng chiến lược và là
hậu bị quân của quân đội chính quy. Nhiệm vụ cơ bản của dân quân tự
vệ là làm nòng cốt phát động phong trào toàn dân đánh giặc, bảo vệ
Đảng và chính quyền, bảo vệ cơ sở kinh tế và quốc phòng, giữ gìn an
ninh chính trị ở địa phương, là nguồn bổ sung cho bộ đội thường trực;
phối hợp với bộ đội trong tác chiến, làm xung kích trong sản xuất và
bảo vệ sản xuất.
Đảng chăm lo phát triển dân quân tự vệ ở khắp các thôn xã,
khu phố, cơ quan, xí nghiệp, nhất là ở những vùng xung yếu như ven
biển, trong và ven đô thị, các đầu mối giao thông và xung quanh các
căn cứ quan trọng của địch. Tổ chức dân quân tự vệ tuy rộng rãi,
nhưng vẫn có bộ phận trung kiên nòng cốt để đảm nhận những nhiệm
vụ trọng yếu. Biên chế dân quân tự vệ rất linh hoạt, gọn nhẹ, không
ảnh hưởng đến việc chỉ huy, quản lý, huấn luyện.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã kết
hợp nhuần nhuyễn học thuyết quân sự Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự Đông -
Tây để hình thành nên cơ sở tư tưởng của đường lối quân sự của
Đảng. Đường lối đó phản ánh những vấn đề có tính quy luật trong
chiến tranh cách mạng ở một nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc.
Ngay khi mới ra đời, trong cương lĩnh cách mạng của mình,
Đảng đã khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực, chỉ ra con đường
đấu tranh vũ trang để giành chính quyền và vạch rõ đường lối tổ chức