trong lực lượng tự vệ cứu quốc đó, có một quá trình thành lập ra các
đội tự vệ chiến đấu (hoặc còn gọi là tiểu tổ du kích) làm hạt nhân; các
đội này được tổ chức chặt chẽ hơn, trang bị đầy đủ hơn và luyện tập
nhiều hơn. Ngoài cái “vốn” quân sự tập trung đầu tiên là đội du kích
(sau đổi tên thành Cứu quốc quân) được duy trì và phát triển sau cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, tại những nơi có phong trào Việt Minh và lực
lượng tự vệ phát triển mạnh, nhất là hai trung tâm cách mạng Cao
Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai (sau lan rộng hầu khắp các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kim, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) đã
hình thành và phát triển các đội du kích thoát ly. Đó là lực lượng vũ
trang tập trung làm nòng cốt cho phong trào du kích, cho việc xây
dựng và bảo vệ các khu căn cứ tại các tỉnh, các huyện.
Trong điều kiện phong trào cách mạng cả nước nói chung và
khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng nói riêng đang trên đà phát triển mạnh,
trên cơ sở các lực lượng tự vệ, du kích các địa phương Cao - Bắc -
Lạng đã trưởng thành để từ đó, có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở khu căn cứ và chuẩn bị
cho việc phát động chiến tranh du kích sắp tới, đồng thời giúp đỡ cho
các lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành nhanh chóng.
Sau khi Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng gồm ba thứ
quân đã bước đầu hình thành: đội quân chủ lực của khu căn cứ Cao -
Bắc - Lạng (và sau này là của cả nước), các đội du kích tập trung của
các huyện, các tỉnh và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở
khắp các làng xã.
Từ khi tiến hành cách mạng, Việt Nam bước sang thời kỳ trực
tiếp vận động giải phóng dân tộc, gấp rút chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền. Để tăng cường hơn nữa khối đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp cứu nước khẩn cấp cùng với việc mở rộng hơn nữa
các thành phần tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, Đảng cũng