lực lượng vũ trang qua từng giai đoạn. Do nhiệm vụ cách mạng chung
và nhiệm vụ chính trị của lực lượng vũ trang được đề ra chính xác và
cụ thể, nên đã nâng cao được trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của
toàn thể lực lượng vũ trang, tạo nên một khí thế cách mạng sôi nổi,
một quyết tâm cách mạng vững chắc, một ý chí quyết chiến, quyết
thắng cao. Do nhiệm vụ quân sự của Đảng và nhiệm vụ chiến đấu của
lực lượng vũ trang phù hợp với từng bước chuyển lớn của cách mạng
và chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã
nhận rõ nhiệm vụ chiến đấu của mình trên từng chiến trường, trong
từng tình huống chiến lược lớn, nhất là ở những bước ngoặt quyết định
của cách mạng và chiến tranh, để ra sức phấn đấu hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ đó. Như vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thực sự
là công cụ vững chắc để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Đây là một
bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang của
Đảng.
Từ quan điểm vũ trang toàn dân và vận dụng quy luật tổ chức
quân sự của cách mạng vô sản vào hoàn cảnh thực tế của đất nước,
Đảng đã để ra đường lối kết hợp vũ trang quần chúng cách mạng với
xây dựng quân đội nhân dân, tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân ba
thứ quân.
Qua quá trình xây dựng và chiến đấu trong các điều kiện đấu
tranh khác nhau, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã có những
hình thức tổ chức cụ thể với trình độ phát triển ngày càng cao. Nhưng
nhìn chung, trong ba thứ quân đã hình thành hai thành phần cơ bản kết
hợp với nhau. Đó là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương kết hợp với dân
quân du kích. Vũ trang toàn dân là phải vũ trang cho quần chúng rộng
rãi, nhưng lại phải xây dựng quân đội nhân dân làm nòng cốt cho các
thứ quân. Đó là lực lượng có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm,
được huấn luyện tốt, trang bị vũ khí kỹ thuật ngày càng hiện đại, chỉ
huy và lãnh đạo tập trung thống nhất, có khả năng đánh tiêu diệt, có
trình độ sẵn sàng chiến đấu cao. Lực lượng vũ trang quần chúng cũng