bảo đảm phát huy sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam, cả chế độ xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và chế độ dân chủ nhân dân ở các vùng giải
phóng ở miền Nam. Ở đây chúng ta thấy biểu hiện rõ ý nghĩa to lớn
của tư tưởng kết hợp tăng cường xây dựng hậu phương lớn miền Bắc
với tăng cường xây dựng hậu phương tại chỗ ở miền Nam. Lúc đầu,
một số địa phương miền Nam chưa thật chú ý xây dựng và phát triển
căn cứ địa, hậu phương tại chỗ nên khi tình hình chuyển biến phức
tạp, đã gặp nhiều khó khăn, nhất là về mặt bảo đảm lương thực và một
số mặt khác về hậu cần, đồng thời ảnh hưởng đến việc bồi dưỡng sức
dân. Đến khi nhiều nơi thực hiện tốt chủ trương của Đảng thì có
chuyển biến tốt, các đơn vị đã tự túc được trên 50% lương thực, như
Tây Nguyên, Trị - Thiên... Ở vùng đồng bằng do ta làm chủ, ta đã phát
triển sản xuất. Hậu phương tại chỗ do đó đã phát huy tác dụng.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của
nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh cách mạng, mang đặc trưng
của chiến tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX: Một là, nhiệm vụ
tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc đi đôi với nhiệm vụ xây dựng
chính quyền dân tộc mới, thay đổi chế độ. Hai là, nhiệm vụ giải phóng
dân tộc là bộ phận của nhiệm vụ cách mạng. Ba là, mỗi quốc gia tiến
hành chiến tranh giải phóng đều thuộc về một phong trào tiến bộ nhất
định của thế giới trong bối cảnh thế giới căn bản chia làm "hai đối
cực" là các nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa. Do
đó, Việt Nam tiến hành chiến tranh chống xâm lược, không thể không
dựa vào hậu phương quốc tế, vào sự giúp đỡ của bạn bè và nhân dân
tiến bộ trên thế giới. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít
của cách mạng thế giới. Như thế, khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh
cách mạng của nhân dân Việt Nam không chỉ dựa vào hậu phương
trong nước, mà còn có thể dựa vào hậu phương quốc tế rộng lớn.
Từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay khi còn xây
dựng căn cứ địa Việt Bắc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương
dựa vào thế đứng có lợi ở biên giới Việt - Trung để tranh thủ sự chi