bắn ra được mười phát tên". Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: "Cao
Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy đặt tên là Linh Quang kim trảo
thần nỏ". Loại vũ khí "nỏ thành có uy lực và hiệu quả chiến đấu cao
hơn hẳn loại vũ khí thông thường và người phát minh ra nó được gọi
là ông Nỏ
69
. Theo tài liệu khảo cổ, tại thành Cổ Loa (Hà Nội), các nhà
khảo cổ cũng đã phát hiện được kho mũi tên đồng hàng vạn chiếc,
khẳng định tài năng chế tạo vũ khí trang bị cho quân đội thời An
Dương Vương.
Trong các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ phương Bắc, ông
cha ta đã tự tạo ra vũ khí, đóng chiến thuyền để đánh địch. Năm 938,
nhân dân đã góp sức xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng, đánh
thắng quân Nam Hán, giành lại nền độc lập cho đất nước. Quân đội
thời Lý được trang bị vũ khí tốt, trong đó có máy bắn đá, đã phát huy
tác dụng trong trận công phá thành Ung Châu (1075), sau đó nhanh
chóng lui quân về tổ chức tuyến phòng ngự trên sông Như Nguyệt,
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống. Thời Trần, quân
đội được chú trọng xây dựng phát triển cả về tổ chức và trang bị vũ
khí. Các công xưởng (quan xưởng) được xây dựng để sản xuất vũ khí,
thuyền chiến cung cấp cho quân đội. Thời nhà Hồ, dưới sự chỉ huy và
tổ chức của Hồ Nguyên Trừng, nhiều xưởng đóng chiến thuyền được
thành lập. Chiến thuyền nhà Hồ thuộc loại lớn, sàn thuyền đi lại dễ
dàng, vừa tiện cho việc tải lương, ra thuận lợi cho việc chiến đấu.
Chính nhờ kỹ thuật đóng thuyền tiến bộ, nên thủy binh nhà Hồ là lực
lượng khá mạnh
70
. Đặc biệt, Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra súng
thần cơ và cho sản xuất hàng loạt loại vũ khí này. Súng thần cơ có
nhiều cỡ, lớn nhỏ khác nhau, có sức công phá và sát thương hơn hẳn
các loại súng đương thời, kể cả hỏa pháo nhà Minh (Trung Quốc). Về
việc chế tạo và sử dụng, sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ chép vắn tắt,
nhà Hồ đã "đặt bốn kho quân khí. Không kể là quân hay dân, hễ ai
khéo nghề đều sung vào làm việc"
71
, nhưng sử sách nhà Minh lại chép
khá rõ: "Dùng đồng đỏ ở mức giữa sống và chín, nếu lấy sắt thì sắt