hậu phương từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến
ngày càng hoàn chỉnh. Kết hợp xây dựng hậu phương tại chỗ, ở khắp
nơi với xây dựng hậu phương chung của cả nước và tranh thủ hậu
phương quốc tế để đánh giặc. Xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững
mạnh toàn diện; thực hiện vừa chiến đấu vừa xây dựng và bảo vệ căn
cứ địa, hậu phương.
Ở Việt Nam, từ xưa đến nay, dựng nước gắn liền với giữ nước
là quy luật tồn tại và phát triển. Ngay từ buổi đầu dựng nước, người
Việt đã lo phòng thủ đất nước, ông cha ta ngày xưa quan niệm “thủ
quốc” (giữ nước) là bảo vệ từng thước núi tấc sông ở biên giới quốc
gia, bảo vệ vương triều, bảo vệ nhân dân và tài nguyên đất nước; quốc
phòng phải có kế lâu dài, lo giữ nước từ khi nước chưa nguy; chăm lo
cố kết lòng người “chúng chí thành thành”, coi khoan thư sức dân là
thượng sách giữ nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam thời hiện đại chủ
trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại và liên
minh; quốc phòng gắn liền với an ninh; chăm lo xây dựng sức mạnh
tổng hợp của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, bảo
vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là những nội dung cốt
yếu của tư tưởng quốc phòng trong lịch sử Việt Nam.
6. Các nhà nước, các triều đại Việt Nam đều coi “việc binh là
việc cốt yếu của quốc gia”, “phàm có nhà nước tất phải có võ bị”. Lực
lượng quân sự là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giữ nước. Trong
lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã có một hệ thống
quan điểm về vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân
rất độc đáo sáng tạo. Chủ trương dựa vào dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhiều thứ quân. Chính sách “ngụ binh ư nông” của các nhà nước
Đại Việt xưa kia và chính sách nghĩa vụ quân sự thời hiện đại đều coi
trọng xây dựng lực lượng thường trực mạnh và lực lượng dự bị hùng
hậu. Quân đội thời nào cũng đóng vai trò nòng cốt trong lực lượng vũ
trang, được chú trọng xây dựng chính quy, thiện chiến với quan niệm
“cốt tinh không cốt đông”, chủ trương xây dựng quân đội cách mạng