người phương Đông; viết xong về sử phương Đông ông lại nhờ các nhà
chuyên về phương Đông coi lại bản thảo, chẳng hạn nhờ ông Ananda,
Coomaraswamy ở Viện Mĩ thuật Boston đọc phần về Ấn Độ, nhờ giáo sư
H.H. Gowen ở Đại học Washington và ông Upton Close coi lại hai phần về
Trung Hoa và Nhật Bản.
Mặc dù vậy, ông vẫn nhận rằng tác phẩm không thể nào hết lỗi mà chỉ một
mình ông chịu trách nhiệm. Và trong lời Mở đầu của toàn bộ, ông xin lỗi
trước các học giả Do Thái, Ả Rập, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản nếu những
điều ông viết về Yahveh, Allah, về triết lí Ấn Độ, Trung Hoa, về văn minh
Nhật Bản không làm vừa ý họ vì sơ lược quá.
Vợ con ông phải tiếp tay với ông. Gia đình ông ở Los Angeles, trên một
ngọn đồi cao nhìn xuống Hollywood. Hai ông bà, mỗi người có một phòng
nghiên cứu riêng và một phòng làm việc chung. Tài liệu nào, ông đọc xong
rồi cũng đưa bà đọc, mỗi người cùng ghi chép, suy nghĩ, sau họp nhau để
so sánh, bàn bạc rồi mới viết. Cứ theo các bảng Thư mục của ông thì ông
bà đã tra cứu khoảng 4000-5000 bộ sách để gom góp tài liệu. Cô con gái,
Ethel, giúp ông bà trong việc tìm tài liệu, ghi xuất xứ và đánh máy bản
thảo.
Ông vạch trước chương trình cho mấy chục năm, giữ đúng được lời hứa với
nhà xuất bản, cứ đúng ngày là giao bản thảo, không hề trễ. Thật đáng phục.
Bản tiếng Anh gồm mười cuốn: cuốn đầu về di sản phương Đông soạn
xong năm 1935
(mất 6 năm), cuốn thứ hai về Hi Lạp xong năm 1939 (4
năm), từ đó cứ 3 hay 4 năm xong một cuốn đến năm 1965 trọn bộ.
Cuốn đầu ra rồi, không ai còn nghi ngờ khả năng của ông nữa, và khi cuốn
cuối in xong, ai cũng phải phục ông: sự nghiệp của ông ngang hàng với sự
nghiệp các sử gia danh tiếng của nhân loại; cuốn thứ ba: César và Ki Tô
viết rất hay, tổng hợp rất khéo; các cuốn về văn minh phương Tây thời Cận